Đại
hội XII của Đảng họp vào thời điểm có ý nghĩa rất quan trọng: Toàn Đảng, toàn
dân và toàn quân ta thực hiện thắng lợi nhiều chủ trương, mục tiêu và nhiệm vụ
được xác định trong Nghị quyết Đại hội XI của Đảng; trải qua 5 năm thực hiện
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 -
2020, 2 năm thực hiện Hiến pháp năm 2013, 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới.
Đại hội có nhiệm vụ kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng
(2011 - 2015); nhìn lại 30 năm đổi mới; quyết định phương hướng, mục tiêu,
nhiệm vụ 5 năm 2016 - 2020; kiểm điểm sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa XI; đánh giá việc thi hành Điều lệ Đảng khóa XI; bầu Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa XII (nhiệm kỳ 2016 - 2020).
Đại
hội diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực diễn biến nhanh, rất
phức tạp, khó lường; đất nước đứng trước nhiều vấn đề mới, có cả những thuận
lợi, thời cơ đan xen với những khó khăn, thách thức gay gắt. Cán bộ, đảng viên
và nhân dân đặt nhiều kỳ vọng vào những quyết sách đúng đắn, mạnh mẽ, phù hợp
của Đảng để phát huy thuận lợi, vượt qua mọi khó khăn, tiếp tục đưa đất nước ta
phát triển nhanh, bền vững. Vì vậy, Đại hội XII có ý nghĩa rất quan trọng, định
hướng cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong 5 năm tới: tăng cường xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh và xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh; phát
huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn diện, đồng
bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình,
ổn định; xây dựng nền tảng để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại.
I- ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT KẾT QUẢ THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XI
(2011 - 2015) VÀ NHÌN LẠI 30 NĂM ĐỔI MỚI (1986 - 2016)
1- Đánh giá tổng quát kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XI;
nguyên nhân và kinh nghiệm
Năm
năm qua, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, tình hình thế giới, khu vực có
nhiều diễn biến rất phức tạp; kinh tế thế giới phục hồi chậm, khủng hoảng chính
trị ở nhiều nơi, nhiều nước; cạnh tranh về nhiều mặt ngày càng quyết liệt giữa
các nước lớn tại khu vực; diễn biến phức tạp trên Biển Đông,... đã tác động bất
lợi đến nước ta. Trong nước, ngay từ đầu nhiệm kỳ, cùng với những ảnh hưởng của
khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, những hạn chế, khiếm
khuyết vốn có của nền kinh tế chưa được giải quyết, những hạn chế, yếu kém
trong lãnh đạo, quản lý và những vấn đề mới phát sinh đã làm cho lạm phát tăng
cao, ảnh hưởng nghiêm trọng đến ổn định kinh tế vĩ mô, tốc độ tăng trưởng và
đời sống nhân dân. Thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu gây thiệt hại nặng
nề. Nhu cầu bảo đảm an sinh, phúc lợi xã hội ngày càng cao. Đồng thời, chúng ta
cũng phải dành nhiều nguồn lực để bảo đảm quốc phòng, an ninh và bảo vệ chủ
quyền đất nước trước những động thái mới của tình hình khu vực và quốc tế.
Trong
bối cảnh đó, nhìn tổng quát,toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã nỗ lực phấn
đấu đạt được những thành quả quan trọng.
Nền
kinh tế vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, quy mô và tiềm lực được nâng lên;
kinh tế vĩ mô dần ổn định, lạm phát được kiểm soát; tăng trưởng kinh tế tuy
thấp hơn 5 năm trước, nhưng vẫn đạt tốc độ khá và có chiều hướng phục hồi. Đổi
mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế và thực hiện ba đột phá chiến
lược được tập trung thực hiện, đạt kết quả tích cực bước đầu; cơ cấu kinh tế
tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Giáo dục và đào
tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, xã hội tiếp tục phát triển. An sinh xã hội
được quan tâm nhiều hơn và cơ bản được bảo đảm, đời sống của nhân dân tiếp tục
được cải thiện. Bảo vệ tài nguyên, môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu
có những chuyển biến tích cực. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh
được tăng cường; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc,
hòa bình, ổn định được giữ vững để phát triển đất nước. Quan hệ đối ngoại, hội
nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, có hiệu quả. Vị thế, uy tín quốc tế của nước
ta tiếp tục được nâng cao. Dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc tiếp tục được phát huy. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống
chính trị được chú trọng và đạt một số kết quả quan trọng. Quan điểm và thể chế
về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện, hiệu
lực và hiệu quả được nâng lên. Đã thể chế hóa kịp thời Cương lĩnh (bổ sung,
phát triển năm 2011), xây dựng và ban hành Hiến pháp năm 2013. Những thành quả
nêu trên tạo tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục phát triển nhanh, bền vững
hơn trong giai đoạn mới.
Những
thành quả đạt được 5 năm qua có nhiều nguyên nhân, trong đó quan trọng nhất là
sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban
Bí thư, các cấp ủy đảng trong việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XI,
giải quyết kịp thời, có kết quả nhiều vấn đề mới phát sinh; sự đổi mới, nâng
cao chất lượng hoạt động của Quốc hội và các cơ quan dân cử; sự quản lý, điều hành
năng động trên nhiều lĩnh vực của Chính phủ, chính quyền các cấp; sức mạnh đoàn
kết toàn dân tộc, sự nỗ lực phấn đấu, sáng tạo của toàn Đảng, toàn dân và toàn
quânta; hội nhập quốc tế sâu rộng đã đem lại nhiều cơ hội, điều kiện thuận lợi
cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy
nhiên, đổi mới chưa đồng bộ và toàn diện. Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chưa
đạt kế hoạch; nhiều chỉ tiêu, tiêu chí trong mục tiêu phấn đấu để đến năm 2020
nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại không đạt được.
Kinh tế vĩ mô ổn định nhưng chưa vững chắc; nợ công tăng nhanh, nợ xấu đang
giảm dần nhưng còn ở mức cao; sản xuất kinh doanh còn gặp rất nhiều khó khăn.
Tăng trưởng kinh tế thấp hơn 5 năm trước, không đạt mục tiêu đề ra; năng suất,
chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chậm được hoàn thiện, chưa có cơ chế đột
phá để thúc đẩy phát triển; chất lượng nguồn nhân lực còn thấp; kết cấu hạ tầng
thiếu đồng bộ, tiếp tục là những yếu tố cản trở sự phát triển. Thực hiện cơ cấu
lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng còn chậm. Nhiều hạn chế,
yếu kém trong các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa,
xã hội chậm được khắc phục. Quản lý tài nguyên, môi trường còn bất cập. Tình
trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí,... chưa được ngăn
chặn và đẩy lùi. Tội phạm và tệ nạn xã hội còn diễn biến phức tạp; đạo đức xã
hội có mặtxuống cấp. Dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc chưa được phát huy đầy đủ; kỷ cương, phép nước chưanghiêm. Một số mặt công
tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và Mặt trận Tổ
quốc, các tổ chức chính trị - xã hội chuyển biến chậm. Công tác dự báo, hoạch
định và lãnh đạo tổ chức thực hiện chính sách của Đảng, Nhà nước, hiệu lực,
hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý phát triển xã hội còn nhiều bất cập. Hội
nhập quốc tế có mặt chưa chủ động, hiệu quả chưa cao.
Những
hạn chế, khuyết điểm nêu trên có nguyên nhân khách quan là do tác động của cuộc
khủng hoảng tài chính vàsuy thoái kinh tế toàn cầu; thiên tai, dịch bệnh; những
diễn biến mới phức tạp của tình hình thế giới và khu vực, tình hình căng thẳng
do tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông; sự chống phá của các thế lực thù địch.
Song
trực tiếp và quyết định nhất là nguyên nhân chủ quan:Cuối nhiệm kỳ khoá X, kinh
tế vẫn trên đà tăng trưởng, song một số khó khăn, hạn chế và những yếu kém vốn
có của nền kinh tế đã bộc lộ, nhưng do chưa đánh giá và dự báo đầy đủ, nên Đại
hội XI đề ra một số chỉ tiêu, nhiệm vụ khá cao. Công tác tổng kết thực tiễn,
nghiên cứu lý luận chưa giải đáp được kịp thời một số vấn đề đặt ra trong quá
trình đổi mới. Nhiều hạn chế, yếu kém trong công tác lãnh đạo, quản lý, điều
hành của cấp ủy, chính quyền các cấp, của đội ngũ cán bộ, đảng viên chậm được
khắc phục; chưa chú trọng đúng mức tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ doanh nghiệp khi
tập trung thực hiện chủ trương kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô; chưa
quyết liệt trong việc chỉ đạo thực hiện một số chủ trương, quan điểm phát triển
đã được nêu trong Nghị quyết Đại hội XI về cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi
mới mô hình tăng trưởng và các đột phá chiến lược, chưa tạo được cơ chế, chính
sách có tính đột phá để huy động mọi nguồn lực cho phát triển. Năng lực dự báo
còn hạn chế, cho nên một số chủ trương, chính sách, giải pháp đề ra chưa phù
hợp.
Sau
5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, rút ra một số kinh nghiệm sau:
Một, trước những khó khăn, thách thức trên con đường đổi mới, phải hết sức chú trọng công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh; phải phát huy dân chủ, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tạo sự nhất trí trong Đảng và đồng thuận xã hội; có quyết tâm chính trị cao với những biện pháp thiết thực, mạnh mẽ, đồng bộ, kiên quyết phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; chú trọng đổi mới công tác tổ chức - cán bộ, đẩy mạnh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ; đồng thời đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch.
Hai,
nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, bám sát thực
tiễn của đất nước và thế giới; đồng thời nắm bắt, dự báo những diễn biến mới để
kịp thời xác định, điều chỉnh một số chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp cho phù
hợp. Phải chỉ đạo quyết liệt, kiên trì, sáng tạo để tổ chức thực hiện thắng lợi
những chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước.
Ba,
gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó: phát triển kinh
tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa - nền
tảng tinh thần của xã hội; bảo đảm quốc phòng và an ninh là nhiệm vụ trọng yếu,
thường xuyên.
Bốn,
kiên trì thực hiện các mục tiêu lâu dài, các nhiệm vụ cơ bản, đồng thời tập
trung các nguồn lực thực hiện hiệu quả những nhiệm vụ cấp bách, trước mắt, giải
quyết dứt điểm những yếu kém, ách tắc, tạo đột phá để giữ vững và đẩy nhanh
nhịp độ phát triển; chú trọng ổn định kinh tế vĩ mô và cải thiện môi trường đầu
tư, kinh doanh; phát huy mọi nguồn lực trong và ngoài nước đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Năm,
chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, lấy
lợi ích quốc gia - dân tộc làm mục tiêu cao nhất, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
2- Nhìn lại 30 năm đổi mới (1986 - 2016)
Ba
mươi năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự nghiệp phát triển
của nước ta, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và nhân dân
ta. Đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc,
toàn diện, triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân vì
mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
Nhìn
tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn,
có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa. Đồng thời cũng còn nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhiều hạn chế,
yếu kém cần phải tập trung giải quyết, khắc phục để đưa đất nước phát triển nhanh
và bền vững.
Đất
nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở
thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển. Chính trị
- xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Văn hóa - xã hội có bước
phát triển; bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi. Dân chủ
xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết toàn dân tộc
được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp
quyền và cả hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước
được nâng lên; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã
hội chủ nghĩa được giữ vững. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào
chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt
Những
thành tựu đó tạo tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển
mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn,
sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực
tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.
Tuy
nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta còn nhiều hạn chế, khuyết
điểm.
Công
tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa làm rõ một số vấn
đề đặt ra trong quá trình đổi mới để định hướng trong thực tiễn, cung cấp cơ sở
khoa học cho hoạch định đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà
nước. Lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội còn một
số vấn đề cần phải qua tổng kết thực tiễn để tiếp tục làm rõ.
Kinh
tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu và thực tế
nguồn lực được huy động. Trong 10 năm gần đây, kinh tế vĩ mô thiếu ổn định, tốc
độ tăng trưởng kinh tế suy giảm, phục hồi chậm. Chất lượng, hiệu quả, năng suất
lao động xã hội và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Phát triển thiếu
bền vững cả về kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường. Nhiều vấn đề bức xúc nảy
sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản lý xã hội chưa được nhận thức đầy đủ và
giải quyết có hiệu quả; còn tiềm ẩn những nhân tố và nguy cơ mất ổn định xã
hội. Trên một số mặt, một số lĩnh vực, một bộ phậnnhân dân chưa được thụ hưởng
đầy đủ, công bằng thành quả của công cuộc đổi mới. Đổi mới chính trị chưa đồng
bộ với đổi mới kinh tế; năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị
chưa ngang tầm nhiệm vụ.
Việc
tạo nền tảng để cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại không
đạt được mục tiêu đề ra.
Bốn
nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (năm
1994) nêu lên vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp, như nguy cơ "diễn biến
hòa bình" của các thế lực thù địch với những thủ đoạn mới, nhất là triệt
để sử dụng các phương tiện truyền thông mạng Internet để chống phá ta và những
biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ.
Niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng, chế độ có mặt bị giảm sút.
Những
hạn chế, khuyết điểm trên đây đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải nỗ
lực phấn đấu không ngừng để khắc phục, tiếp tục đưa đất nước phát triển nhanh,
bền vững theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Nhìn
lại 30 năm đổi mới, từ những thành tựu cũng như những hạn chế, khuyết điểm, rút
ra một số bài học sau:
Một
là, trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát
triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền
thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc
tế phù hợp với Việt Nam.
Hai là, đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm "dân là gốc", vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc.
Ba
là, đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; tôn trọng quy luật
khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực
tiễn, nghiên cứu lý luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề
do thực tiễn đặt ra.
Bốn
là, phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự
chủ, đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng
có lợi; kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Năm
là, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp
chiến lược, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; nâng cao hiệu lực,
hiệu quả hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã
hội và của cả hệ thống chính trị; tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân
dân.
II- MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ TỔNG QUÁT PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC 5 NĂM 2016
– 2020
1- Dự báo tình hình thế giới và đất nước những năm sắp tới
Trên
thế giới, trong những năm tới tình hình sẽ còn nhiều diễn biến rất phức tạp,
nhưng hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế
lớn. Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh. Hợp
tác, cạnh tranh, đấu tranh và sự tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nước, nhất là giữa
các nước lớn ngày càng tăng. Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, đặc biệt là
công nghệ thông tin tiếp tục phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy sự phát triển nhảy
vọt trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia.
Tình
hình chính trị - an ninh thế giới thay đổi nhanh chóng, diễn biến rất phức tạp,
khó lường; tình trạng xâm phạm chủ quyền quốc gia, tranh chấp lãnh thổ và tài
nguyên, xung đột sắc tộc, tôn giáo, can thiệp lật đổ, khủng bố, chiến tranh
mạng, chiến tranh cục bộ,... tiếp tục diễn ra gay gắt ở nhiều khu vực.
Cục
diện thế giới theo xu hướng đa cực, đa trung tâm diễn ra nhanh hơn. Các nước
lớn điều chỉnh chiến lược, vừa hợp tác, thoả hiệp, vừa cạnh tranh, đấu tranh,
kiềm chế lẫn nhau, tác động mạnh đến cục diện thế giới và các khu vực. Những
biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền áp đặt, chủ
nghĩa thực dụng ngày càng nổi lên trong quan hệ quốc tế. Các thể chế đa phương
đứng trước những thách thức lớn. Các nước đang phát triển, nhất là những nước
vừa và nhỏ đang đứng trước những cơ hội và khó khăn, thách thức lớn trên con
đường phát triển. Trong bối cảnh đó, tập hợp lực lượng, liên kết, cạnh tranh,
đấu tranh giữa các nước trên thế giới và khu vực vì lợi ích của từng quốc gia
tiếp tục diễn ra phức tạp.
Những vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh có nhiều diễn biến phức tạp. Cộng đồng quốc tế phải đối phó ngày càng quyết liệt hơn với các thách thức an ninh truyền thống, phi truyền thống, đặc biệt là an ninh mạng và các hình thái chiến tranh kiểu mới.
Kinh
tế thế giới phục hồi chậm, gặp nhiều khó khăn, thách thức và còn có nhiều biến
động khó lường. Các quốc gia tham gia ngày càng sâu vào mạng sản xuất và chuỗi
giá trị toàn cầu. Biến động của giá cả thế giới, sự bất ổn về tài chính, tiền
tệ và vấn đề nợ công tiếp tục gây ra những hiệu ứng bất lợi đối với nền kinh tế
thế giới. Tương quan sức mạnh kinh tế giữa các quốc gia, khu vực đang có nhiều
thay đổi. Hầu hết các nước trên thế giới đều điều chỉnh chiến lược, cơ cấu lại
nền kinh tế, đổi mới thể chế kinh tế, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ để
phát triển. Cạnh tranh kinh tế, thương mại, tranh giành các nguồn tài nguyên,
thị trường, công nghệ, nhân lực chất lượng cao giữa các nước ngày càng gay gắt.
Xuất hiện nhiều hình thức liên kết kinh tế mới, các định chế tài chính quốc tế,
khu vực, các hiệp định kinh tế song phương, đa phương thế hệ mới.
Châu
Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á, tiếp tục là trung tâm phát
triển năng động, có vị trí địa kinh tế - chính trị chiến lược ngày càng quan
trọng trên thế giới. Đồng thời, đây cũng là khu vực cạnh tranh chiến lược giữa
một số nước lớn, có nhiều nhân tố bất ổn. Tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển,
đảo trong khu vực và trên Biển Đông tiếp tục diễn ra gay gắt, phức tạp. ASEAN
trở thành cộng đồng, tiếp tục phát huy vai trò quan trọng trong duy trì hòa
bình, ổn định, thúc đẩy hợp tác, liên kết kinh tế trong khu vực, nhưng cũng
đứng trước nhiều khó khăn, thách thức cả bên trong và bên ngoài.
Ở
trong nước, thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên, uy tín quốc tế
của đất nước ngày càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để thực
hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Năm
năm tới là thời kỳ Việt Nam thực hiện đầy đủ các cam kết trong Cộng đồng ASEAN
và WTO, tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, hội nhập quốc tế
với tầm mức sâu rộng hơn nhiều so với giai đoạn trước, đòi hỏi Đảng, Nhà nước
và nhân dân ta phải nỗ lực rất cao để tận dụng thời cơ, vượt qua những thách
thức lớn trong quá trình hội nhập.
Kinh
tế từng bước ra khỏi tình trạng suy giảm, lấy lại đà tăng trưởng, nhưng vẫn còn
nhiều khó khăn, thách thức. Kinh tế vĩ mô ổn định chưa vững chắc; nợ công tăng
nhanh, nợ xấu đang giảm dần nhưng còn ở mức cao, năng suất, chất lượng, hiệu
quả, sức cạnh tranh kinh tế thấp.
Bốn
nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra tiếp tục tồn tại, nhất là nguy cơ tụt hậu xa hơn
về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới, nguy cơ "diễn
biến hòa bình" của thế lực thù địch nhằm chống phá nước ta; tình trạng suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn
biến", "tự chuyển hóa" trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công
chức, viên chức và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí diễn biến phức tạp;
khoảng cách giàu - nghèo, phân hóa xã hội ngày càng tăng, đạo đức xã hội có mặt
xuống cấp đáng lo ngại, làm giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào
Đảng và Nhà nước. Bảo vệ chủ quyền biển, đảo đứng trước nhiều khó khăn, thách
thức lớn. Tình hình chính trị - xã hội ở một số địa bàn còn tiềm ẩn nguy cơ mất
ổn định.
Tình
hình thế giới và trong nước tạo ra cả thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách
thức đan xen; đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới to lớn, phức tạp hơn đối với
sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước và bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải
nỗ lực phấn đấu mạnh mẽ hơn.
2- Mục tiêu và nhiệm vụ tổng quát phát triển đất nước trong 5
năm tới
Kế
thừa và phát huy những thành tựu, bài học kinh nghiệm của 30 năm đổi mới, nhất
là 10 năm gần đây, tiếp tục thực hiện có kết quả các phương hướng, nhiệm vụ
đúng đắn đã được đề ra trong các nghị quyết của Đảng, đồng thời đổi mới mạnh
mẽ, toàn diện và đồng bộ, có bước đi phù hợp trên các lĩnh vực, nhất là giữa
kinh tế và chính trị. Tiếp tục đổi mới tư duy, hoàn thiện các cơ chế, chính
sách, tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc nhằm khơi dậy mọi tiềm năng và
nguồn lực của đất nước, tạo động lực mới cho sự phát triển. Nhận thức đúng và
xử lý tốt các nhân tố tạo thành động lực : hài hòa lợi ích; phát huy lòng yêu
nước, tinh thần dân tộc; phát huy dân chủ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc;
phát huy nhân tố con người, vai trò của khoa học - công nghệ..., tạo thành động
lực tổng hợp để đổi mới và hội nhập.
Mục tiêu tổng quát trong 5 năm tới:
Tăng
cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm
quyền và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Phát
huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh toàn diện, đồng
bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, xây dựng nền tảng để
sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân
dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ gìn hòa bình, ổn định để phát triển đất
nước. Nâng cao vị thế và uy tín của Việt
Nhiệm vụ tổng quát trong 5 năm tới:
(1)
Tăng trưởng kinh tế cao hơn 5 năm trước trên cơ sở giữ vững ổn định kinh tế vĩ
mô, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, chú trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn gắn với xây dựng nông thôn mới; phát triển kinh tế tri thức, nâng cao
trình độ khoa học, công nghệ của các ngành, lĩnh vực; nâng cao năng suất, chất
lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; xây dựng nền kinh tế độc lập,
tự chủ, phát triển nhanh, bền vững, tham gia có hiệu quả vào mạng sản xuất và
chuỗi giá trị toàn cầu.
(2)
Tiếp tục hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa; nâng cao hiệu lực, hiệu quả, kỷ luật, kỷ cương, tính công khai, minh
bạch trong quản lý kinh tế, năng lực quản lý của Nhà nước và năng lực quản trị
doanh nghiệp.
(3)
Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực; đẩy mạnh phát triển, ứng dụng khoa học - công nghệ; phát huy vai trò quốc
sách hàng đầu của giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ đối với sự nghiệp
đổi mới và phát triển của đất nước.
(4)
Xây dựng nền văn hóa, con người Việt
(5)
Phát triển sự nghiệp y tế, nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân; bảo
đảm an sinh xã hội, thực hiện tốt chính sách lao động, việc làm, thu nhập,
chính sách với người có công; xây dựng môi trường sống lành mạnh, an ninh, an
toàn, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, quản lý tốt sự phát triển xã
hội.
(6)
Tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường; chủ động phòng, chống thiên
tai, ứng phó với biến đổi khí hậu.
(7)
Củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền
an ninh nhân dân vững chắc; xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh
chủng, lực lượng quan trọng; giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã
hội; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.
(8)
Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tạo
điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; nâng cao vị thế,
uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
(9)
Hoàn thiện, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân;
không ngừng củng cố, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tăng
cường sự đồng thuận xã hội; tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động
của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
(10)
Tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng bộ máy nhà
nước tinh gọn, trong sạch, vững mạnh; hoàn thiện hệ thống pháp luật, đẩy mạnh
cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có
phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; phát huy dân chủ, tăng cường
trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng,
lãng phí, quan liêu, tệ nạn xã hội và tội phạm.
(11)
Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm
quyền, tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong, sức chiến đấu
của Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển
hóa" trong nội bộ. Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, coi trọng công tác bảo
vệ Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ; tăng cường và nâng cao chất lượng công tác tư
tưởng, lý luận, công tác kiểm tra, giám sát và công tác dân vận của Đảng; tiếp
tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
(12) Tiếp tục quán triệt và xử lý tốt các quan hệ lớn : quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa Nhà nước và thị trường; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Các chỉ tiêu quan trọng phấn đấu đạt được 5 năm tới :
a)
Về kinh tế
Tốc
độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 6,5 - 7%/năm. Đến năm 2020, GDP bình
quân đầu người khoảng 3.200 - 3.500 USD; tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ trong
GDP trên 85%; tổng vốn đầu tư toàn xã hội bình quân 5 năm bằng khoảng 32 - 34%
GDP; bội chi ngân sách nhà nước không quá 4% GDP. Yếu tố năng suất tổng hợp
(TFP) đóng góp vào tăng trưởng khoảng 25 - 30%; năng suất lao động xã hội bình
quân tăng 4 - 5%/năm; tiêu hao năng lượng tính trên GDP bình quân giảm 1 -
1,5%/năm. Tỉ lệ đô thị hóa đến năm 2020 đạt 38 - 40%.
b)
Về xã hội
đến
năm 2020, tỉ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội khoảng 35 -
40%; tỉ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 65 - 70%, trong đó có bằng cấp,
chứng chỉ đạt 25 - 26%; tỉ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%; có 10
bác sĩ và trên 26 giường bệnh trên 1 vạn dân; tỉ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt
trên 80% dân số; tỉ lệ hộ nghèo giảm bình quân khoảng 1,3 - 1,5%/năm.
c)
Về môi trường
Đến
năm 2020, 95% dân cư thành thị, 90% dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch,
hợp vệ sinh và 80 - 85% chất thải nguy hại, 95 - 100% chất thải y tế được xử
lý; tỉ lệ che phủ rừng đạt 44 - 45%.
III- ĐỔI MỚI MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG, CƠ CẤU LẠI NỀN KINH TẾ; ĐẨY
MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC
1- Tình hình
Mô
hình tăng trưởng từ chủ yếu theo chiều rộng đã bước đầu có sự chuyển biến sang
kết hợp giữa chiều rộng và chiều sâu; đã hình thành những mô hình mới và cách
làm mới, sáng tạo. Với việc cơ cấu lại nền kinh tế và thực hiện ba đột phá
chiến lược, nhất là trên một số lĩnh vực trọng tâm, năng suất, hiệu quả và sức
cạnh tranh của nền kinh tế có bước cải thiện; bảo đảm hài hòa hơn giữa tăng
trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi
trường.
Hiệu
quả đầu tư xã hội, đầu tư công từng bước được cải thiện, tình trạng đầu tư dàn
trải bước đầu được hạn chế. Hệ thống các tổ chức tài chính - tín dụng được cơ
cấu lại một bước, không để xảy ra tình trạng đổ vỡ, mất an toàn hệ thống. Doanh
nghiệp nhà nước đang được sắp xếp, đổi mới theo hướng tập trung vào ngành
chính, đẩy mạnh cổ phần hóa, triển khai thực hiện mô hình quản trị doanh nghiệp
hiện đại, nâng cao tính công khai, minh bạch và hiệu quả hoạt động.
Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa tiếp tục được đẩy mạnh, đạt một số thành quả. Công
nghệ sản xuất công nghiệp đã có bước thay đổi về trình độ theo hướng hiện đại.
Tỉ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong giá trị sản xuất công nghiệp tăng,
tỉ trọng công nghiệp khai thác giảm dần. Khu vực thương mại, dịch vụ tăng
trưởng khá; cơ cấu xuất khẩu chuyển dịch phù hợp với tiến trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn có chuyển biến, mức
độ cơ giới hóa trong nông nghiệp tăng; nông nghiệp phát triển toàn diện hơn
theo hướng khai thác những lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới; xây dựng nông
thôn mới có nhiều tiến bộ. Cơ cấu kinh tế vùng được quan tâm, có sự chuyển dịch
theo hướng phát huy tiềm năng, lợi thế của từng vùng và thu hẹp khoảng cách
phát triển giữa các vùng, địa phương. Cơ cấu lao động có sự chuyển dịch tích
cực; chất lượng nguồn nhân lực bước đầu cải thiện. Đội ngũ doanh nhân tuy còn
gặp nhiều khó khăn nhưng đã có những đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế
- xã hội. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội có bước phát triển; quá
trình đô thị hóa diễn ra khá nhanh. Hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trên
nhiều cấp độ, góp phần thúc đẩy quá trình tham gia vào mạng sản xuất, chuỗi giá
trị toàn cầu, nâng cao giá trị gia tăng của nền kinh tế.
Những
kết quả đạt được nêu trên chủ yếu là doNhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân
ta đã có nhiều cố gắng trong triển khai thực hiện đường lối, chủ trương của
Đảng về đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; ban hành nhiều cơ
chế, chính sách, giải pháp để thực hiện Nghị quyết Đại hội XI và các nghị quyết
của Trung ương phù hợp với tình hình mới.
Tuy
nhiên, nền kinh tế vẫn chủ yếu phát triển theo chiều rộng, tăng trưởng kinh tế
còn phụ thuộc nhiều vào các yếu tố về vốn, tài nguyên, lao động trình độ thấp,
chưa dựa nhiều vào tri thức, khoa học và công nghệ, lao động có kỹ năng. Năng
suất lao động chậm được cải thiện, thấp hơn nhiều so với một số nước trong khu
vực. Đóng góp của yếu tố năng suất tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế còn
thấp. Chưa phát huy được lợi thế so sánh và tận dụng các cam kết hội nhập quốc
tế để nâng cao chất lượng tăng trưởng, phát triển bền vững.
Nợ
xấu đang giảm dần nhưng còn ở mức cao, nợ công tăng nhanh. Tình trạng đầu tư
công dàn trải, thất thoát, lãng phí chậm được khắc phục. Việc xây dựng và thực
hiện đề án cơ cấu lại tổng thể nền kinh tế thiếu đồng bộ, chưa thật sự gắn với
đổi mới mô hình tăng trưởng, kết quả còn hạn chế. Thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa còn chậm, chưa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Quy hoạch phát
triển các ngành công nghiệp nền tảng và công nghiệp hỗ trợ chưa có định hướng
chiến lược rõ ràng, hiệu quả thấp. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
còn nhiều hạn chế, yếu kém, lạc hậu và thiếu tính kết nối. Phát triển đô thị
thiếu đồng bộ, chất lượng thấp. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn còn chậm, chưa đạt yêu cầu. Các ngành dịch vụ chất lượng cao chậm phát
triển. Kinh tế biển phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của đất
nước. Sự phát triển giữa các địa phương trong vùng và giữa các vùng còn thiếu
liên kết và phối hợp; không gian kinh tế còn bị chia cắt bởi địa giới hành chính.
Chất lượng nguồn nhân lực thấp, chuyển dịch cơ cấu lao động chưa tương ứng với
chuyển dịch cơ cấu sản xuất.
Những
hạn chế, yếu kém nêu trên chủ yếu là do nhận thức, nhất là nhận thức về đổi mới
mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa
chưa đầy đủ; thể chế hóa và tổ chức thực hiện còn chậm, thiếu hệ thống và đồng
bộ. Chưa có đột phá về thể chế để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả
nguồn lực phát triển theo cơ chế thị trường. Chưa xác định rõ những ngành, lĩnh
vực trọng tâm, trọng điểm cần ưu tiên trong chính sách công nghiệp quốc gia cho
từng giai đoạn; thiếu gắn kết chặt chẽ, đồng bộ giữa công nghiệp hóa, hiện đại
hóa với đô thị hóa, giữa phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn với xây
dựng nông thôn mới. Chưa nhận thức đầy đủ và xử lý tốt quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế với phát triển văn hóa, xây dựng con người, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường. Chưa chuẩn bị thật tốt các điều
kiện cần thiết và tận dụng thời cơ để hội nhập quốc tế có hiệu quả; có lúc, có
việc chưa gắn chặt với đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền
kinh tế độc lập, tự chủ.
2- Phương hướng, nhiệm vụ
Định hướng đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế
Mô
hình tăng trưởng trong thời gian tới kết hợp có hiệu quả phát triển chiều rộng
với chiều sâu, chú trọng phát triển chiều sâu, nâng cao chất lượng tăng trưởng
và sức cạnh tranh trên cơ sở nâng cao năng suất lao động, tăng cường ứng dụng
tiến bộ khoa học - công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát huy lợi
thế so sánh và chủ động hội nhập quốc tế, phát triển nhanh và bền vững; giải
quyết hài hòa giữa mục tiêu trước mắt và lâu dài; giữa tăng trưởng kinh tế và
phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, thân thiện với môi
trường, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Đổi
mới mô hình tăng trưởng chuyển mạnh từ chủ yếu dựa vào xuất khẩu và vốn đầu tư
sang phát triển đồng thời dựa cả vào vốn đầu tư, xuất khẩu và thị trường trong
nước. Phát huy vai trò quyết định của nội lực, đồng thời thu hút, sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực bên ngoài; phát huy đầy đủ, đúng đắn vai trò của doanh
nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp FDI và khu vực sản xuất
nông nghiệp.
Đẩy
mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo để nâng cao năng
suất lao động, thúc đẩy nghiên cứu và triển khai (R&D), nhập khẩu công nghệ
mới; thực hiện phương thức quản lý, quản trị hiện đại; phát huy tiềm năng con
người và khuyến khích tinh thần sản xuất kinh doanh của mọi người để chủ động
khai thác triệt để lợi thế cạnh tranh, nâng cao giá trị gia tăng, tăng nhanh
giá trị quốc gia và tham gia có hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Tiếp
tục đẩy mạnh thực hiện cơ cấu lại đồng bộ, tổng thể nền kinh tế và các ngành,
các lĩnh vực gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, tập trung vào các lĩnh vực
quan trọng : cơ cấu lại đầu tư với trọng tâm là đầu tư công; cơ cấu lại thị
trường tài chính với trọng tâm là hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức
tài chính, từng bước cơ cấu lại ngân sách nhà nước; cơ cấu lại và giải quyết có
kết quả vấn đề nợ xấu, bảo đảm an toàn nợ công; cơ cấu lại doanh nghiệp nhà
nước với trọng tâm là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước; cơ cấu lại nông
nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, gắn với phát triển kinh tế nông
thôn và xây dựng nông thôn mới. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện ba đột phá chiến
lược, nhất là đột phá về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, nhằm giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất, huy động, phân bổ, sử dụng có hiệu
quả các nguồn lực.
Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa để sớm đưa nước ta cơ bản
trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại
Xác
định hệ tiêu chí nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Chú trọng những tiêu chí
phản ánh trình độ phát triển của nền kinh tế (GDP bình quân đầu người, tỉ trọng
giá trị gia tăng công nghiệp chế tạo, tỉ trọng nông nghiệp, tỉ lệ đô thị hóa,
điện bình quân đầu người,...); những tiêu chí phản ánh trình độ phát triển về
mặt xã hội (chỉ số phát triển con người, tuổi thọ bình quân, chỉ số bất bình
đẳng trong phân phối thu nhập, số bác sĩ trên 1 vạn dân, tỉ lệ lao động qua đào
tạo,...); và những tiêu chí phản ánh trình độ phát triển về môi trường (tỉ lệ
dân số sử dụng nước sạch, độ che phủ rừng, tỉ lệ giảm mức phát thải khí nhà
kính,...).
Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn tới là tiếp tục đẩy mạnh thực hiện mô
hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế gắn với phát triển kinh
tế tri thức, lấy khoa học, công nghệ, tri thức và nguồn nhân lực chất lượng cao
làm động lực chủ yếu; huy động và phân bổ có hiệu quả mọi nguồn lực phát triển.
Xây dựng cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động hợp lý, phát huy lợi thế so sánh, có
năng suất lao động và năng lực cạnh tranh cao, tham gia sâu rộng vào mạng sản
xuất và chuỗi giá trị toàn cầu; có văn minh công nghiệp chiếm ưu thế trong sản
xuất và đời sống xã hội; phát triển nhanh và bền vững phù hợp với điều kiện của
từng giai đoạn.
Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước tiến hành qua ba bước: tạo tiền đề, điều kiện
để công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; và
nâng cao chất lượng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong 5 năm tới, tiếp tục
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chú trọng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, phát triển nhanh, bền vững; xây dựng nền
tảng để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Phát triển công nghiệp
Xây
dựng nền công nghiệp và thương hiệu công nghiệp quốc gia với tầm nhìn trung,
dài hạn, có lộ trình cho từng giai đoạn phát triển.
Tiếp
tục thực hiện tốt chủ trương và có chính sách phù hợp để xây dựng, phát triển
các ngành công nghiệp theo hướng hiện đại, tăng hàm lượng khoa học - công nghệ
và tỉ trọng giá trị nội địa trong sản phẩm, tập trung vào những ngành có tính
nền tảng, có lợi thế so sánh và có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển
nhanh, bền vững, nâng cao tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế; có khả năng
tham gia sâu, có hiệu quả vào mạng sản xuất và phân phối toàn cầu.
Phát
triển có chọn lọc một số ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, công nghiệp công
nghệ cao, công nghiệp sạch, công nghiệp năng lượng, cơ khí, điện tử, hóa chất,
công nghiệp xây dựng, xây lắp, công nghiệp quốc phòng, an ninh. Chú trọng phát
triển các ngành có lợi thế cạnh tranh; công nghiệp hỗ trợ; công nghiệp phục vụ
nông nghiệp, nông thôn; năng lượng sạch, năng lượng tái tạo và sản xuất vật
liệu mới; từng bước phát triển công nghệ sinh học, công nghiệp môi trường và
công nghiệp văn hóa. Tiếp tục phát triển hợp lý một số ngành công nghiệp sử
dụng nhiều lao động.
Phân
bố công nghiệp hợp lý hơn trên toàn lãnh thổ; nâng cao hiệu quả các khu kinh
tế, khu công nghiệp; sớm đưa một số khu công nghiệp công nghệ cao vào hoạt
động.
Phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn gắn với xây dựng
nông thôn mới
Xây
dựng nền nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ cao,
nâng cao chất lượng sản phẩm, giá trị gia tăng, đẩy mạnh xuất khẩu.
Đẩy
nhanh cơ cấu lại ngành nông nghiệp, xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn
diện cả về nông, lâm nghiệp và thủy sản theo hướng hiện đại, bền vững, trên cơ
sở phát huy lợi thế so sánh và tổ chức lại sản xuất, thúc đẩy ứng dụng sâu rộng
khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, công nghệ thông tin vào sản
xuất, quản lý nông nghiệp và đẩy nhanh công nghiệp hóa nông nghiệp, hiện đại
hóa nông thôn để tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, bảo
đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài; nâng cao thu
nhập và đời sống của nông dân. Khai thác lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới,
nâng cao giá trị gia tăng. Chú trọng đầu tư vùng trọng điểm sản xuất nông
nghiệp. Có chính sách phù hợp để tích tụ, tập trung ruộng đất, thu hút mạnh các
nguồn lực đầu tư phát triển nông nghiệp; từng bước hình thành các tổ hợp nông
nghiệp - công nghiệp - dịch vụ công nghệ cao. Chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông
thôn gắn với xây dựng nông thôn mới và quá trình đô thị hóa một cách hợp lý, nâng
cao chất lượng dịch vụ và kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, thu hẹp khoảng cách
về phát triển giữa đô thị và nông thôn, tăng cường kết nối nông thôn - đô thị,
phối hợp các chương trình phát triển nông nghiệp, nông thôn với phát triển công
nghiệp, dịch vụ và đô thị. Xác định vai trò hạt nhân của doanh nghiệp trong
nông nghiệp, đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của các
doanh nghiệp nông, lâm nghiệp nhà nước; phát triển hợp tác xã kiểu mới; hình
thành các vùng nguyên liệu gắn với chế biến và tiêu thụ.
Phát triển khu vực dịch vụ
Đẩy
mạnh phát triển khu vực dịch vụ theo hướng hiện đại, đạt tốc độ tăng trưởng cao
hơn các khu vực sản xuất và cao hơn tốc độ tăng GDP. Tập trung phát triển một
số ngành dịch vụ có lợi thế, có hàm lượng tri thức và công nghệ cao như : du
lịch, hàng hải, dịch vụ kỹ thuật dầu khí, hàng không, viễn thông, công nghệ
thông tin. Hiện đại hóa và mở rộng các dịch vụ có giá trị gia tăng cao như tài
chính, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, logistics và các dịch vụ hỗ trợ sản
xuất kinh doanh khác. Đổi mới và hoàn thiện cơ chế, chính sách giá dịch vụ giáo
dục - đào tạo, y tế; phát triển dịch vụ giáo dục - đào tạo, y tế chất lượng
cao, dịch vụ khoa học và công nghệ, văn hóa, thông tin, thể thao, dịch vụ việc
làm. Hình thành một số trung tâm dịch vụ, du lịch tầm cỡ khu vực và quốc tế.
Chủ động phát triển mạnh hệ thống phân phối bán buôn, bán lẻ trong nước, tham
gia vào mạng phân phối toàn cầu.
Phát triển kinh tế biển
Phát
triển mạnh kinh tế biển nhằm tăng cường tiềm lực kinh tế quốc gia và bảo vệ chủ
quyền biển, đảo. Chú trọng phát triển các ngành công nghiệp dầu khí, đánh bắt
xa bờ và hậu cần nghề cá, kinh tế hàng hải (kinh doanh dịch vụ cảng biển, đóng
và sửa chữa tàu, vận tải biển), du lịch biển, đảo. Có cơ chế tạo bước đột phá
về tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế biển, thu hút mạnh hơn mọi nguồn
lực đầu tư để phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí
hậu, khai thác tài nguyên biển, đảo một cách bền vững. Tập trung đầu tư, nâng
cao hiệu quả hoạt động các khu kinh tế ven biển.
Phát triển kinh tế vùng, liên vùng
Thống
nhất quản lý tổng hợp chiến lược, quy hoạch phát triển trên quy mô toàn bộ nền
kinh tế, vùng và liên vùng. Phát huy tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, đồng
thời ưu tiên phát triển các vùng kinh tế động lực, tạo sức lôi cuốn, lan toả
phát triển đến các địa phương trong vùng và đến các vùng khác. Có chính sách hỗ
trợ phát triển các vùng còn nhiều khó khăn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng
đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi và hải đảo; phát triển kinh tế rừng. Đổi
mới cơ chế phân cấp, phân quyền, gắn với phân định và nâng cao trách nhiệm của
trung ương và địa phương. Thực hiện quy hoạch vùng, chính sách vùng; sớm xây
dựng và thể chế hóa cơ chế điều phối liên kết vùng theo hướng xác định rõ vai
trò đầu tàu và phân công cụ thể trách nhiệm cho từng địa phương trong vùng.
Khắc phục tình trạng nền kinh tế bị chia cắt bởi địa giới hành chính, hoặc đầu
tư dàn trải, trùng lặp. Xây dựng một số đặc khu kinh tế để tạo cực tăng trưởng
và thử nghiệm thể chế phát triển vùng có tính đột phá.
Phát triển đô thị
Đổi
mới cơ chế, chính sách, kiểm soát chặt chẽ quá trình phát triển đô thị theo quy
hoạch và kế hoạch. Từng bước hình thành hệ thống đô thị có kết cấu hạ tầng đồng
bộ, hiện đại, thân thiện với môi trường, gồm một số đô thị lớn, nhiều đô thị
vừa và nhỏ liên kết và phân bố hợp lý trên các vùng; chú trọng phát triển đô
thị miền núi, phát triển mạnh các đô thị ven biển. Nâng cao chất lượng, tính
đồng bộ và năng lực cạnh tranh của các đô thị; chú trọng phát huy vai trò, giá
trị đặc trưng của các đô thị động lực phát triển kinh tế cấp quốc gia và cấp
vùng, đô thị di sản, đô thị sinh thái, đô thị du lịch, đô thị khoa học.
Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
Đẩy
mạnh huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực xã hội để tiếp tục tập trung đầu tư
hình thành hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội tương đối đồng bộ với một
số công trình hiện đại. Ưu tiên và đa dạng hóa hình thức đầu tư cho các lĩnh
vực trọng tâm là : hạ tầng giao thông đồng bộ, có trọng điểm, kết nối giữa các
trung tâm kinh tế lớn và giữa các trục giao thông đầu mối; hạ tầng ngành điện
bảo đảm cung cấp đủ điện cho sản xuất và sinh hoạt, đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội; hạ tầng thủy lợi đáp ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp và
ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng; hạ tầng đô thị lớn hiện đại, đồng
bộ, từng bước đáp ứng chuẩn mực đô thị xanh của một nước công nghiệp.
IV- HOÀN THIỆN THỂ CHẾ, PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1- Tình hình
Thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là hệ thống luật pháp,
cơ chế, chính sách, tiếp tục được hoàn thiện. Vai trò, hiệu quả, sức cạnh tranh
của các chủ thể kinh tế, các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế được nâng
lên. Môi trường đầu tư và kinh doanh được cải thiện, bình đẳng và thông thoáng
hơn.
Các
yếu tố thị trường và các loại thị trường được hình thành đồng bộ hơn, gắn kết
với thị trường khu vực và quốc tế. Hầu hết các loại giá được xác lập theo
nguyên tắc thị trường; thực hiện cơ chế giá thị trường có sự quản lý của Nhà
nước đối với một số loại hàng hóa - dịch vụ thiết yếu.
Vai
trò của Nhà nước được điều chỉnh phù hợp hơn với cơ chế thị trường, ngày càng
phát huy dân chủ trong đời sống kinh tế - xã hội. Việc huy động và phân bổ các
nguồn lực gắn với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
đã từng bước phù hợp với cơ chế thị trường; hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh
doanh.
Hội
nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, từng
bước thích ứng với nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường toàn cầu. Đã thiết
lập được nhiều quan hệ đối tác chiến lược về kinh tế. Tích cực xây dựng Cộng
đồng ASEAN; hoàn thiện thị trường trong nước đầy đủ hơn theo cam kết WTO; đàm
phán, ký kết và thực hiện nhiều hiệp định thương mại tự do song phương và đa
phương thế hệ mới.
Tuy
nhiên, hoàn thiện thể chế kinh tế còn chậm, thiếu kiên quyết; hệ thống pháp
luật, cơ chế, chính sách chưa hoàn chỉnh và đồng bộ, chất lượng không cao, chưa
đáp ứng được yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, thực
hiện ba đột phá chiến lược.
Kết
quả triển khai, thực thi thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
còn hạn chế, chưa tạo được đột phá lớn trong huy động, phân bổ và sử dụng hiệu
quả các nguồn lực phát triển. Quyền tự do kinh doanh chưa được tôn trọng đầy
đủ; môi trường đầu tư, kinh doanh không thật sự bảo đảm cạnh tranh lành mạnh,
bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Giá cả một số hàng hóa, dịch vụ thiết yếu chưa
thật sự tuân theo nguyên tắc thị trường.
Doanh
nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả, chưa thể hiện được vai trò là lực lượng
nòng cốt của kinh tế nhà nước. Hầu hết doanh nghiệp tư nhân quy mô còn nhỏ,
thiếu liên kết, khả năng ứng phó với các rủi ro yếu, nhiều doanh nghiệp phải
giải thể hoặc ngừng hoạt động. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động
chủ yếu trong các ngành sử dụng nhiều lao động, khai thác tài nguyên và còn hạn
chế trong chuyển giao công nghệ và trình độ quản lý tiên tiến.
Trình
độ phát triển của các loại thị trường thấp, vận hành chưa thật sự đồng bộ,
thông suốt, trong đó, thị trường lao động và thị trường dịch vụ công cơ cấu
chưa hợp lý; thị trường tài chính - tiền tệ và thị trường bất động sản tiềm ẩn
nhiều rủi ro; thị trường khoa học - công nghệ phát triển chậm.
Hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước chưa cao; kỷ luật, kỷ cương không nghiêm; Nhà
nước còn can thiệp trực tiếp, quá lớn trong nền kinh tế. Vẫn còn tình trạng bao
cấp, xin - cho trong xây dựng và thực hiện một số cơ chế, chính sách. Sự tham
gia giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân
trong hoạt động quản lý nhà nước còn hạn chế.
Hội
nhập kinh tế quốc tế chưa kết hợp và phát huy tốt nguồn lực bên ngoài với nguồn
lực trong nước để phát triển. Các nỗ lực đổi mới kinh tế trong nước chưa thật
sự đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Nhiều bộ, ngành, địa phương, hiệp hội,
doanh nghiệp thiếu chủ động xây dựng các chương trình, kế hoạch toàn diện, cụ
thể, chuẩn bị các điều kiện và năng lực về mọi mặt để khắc phục khó khăn, thách
thức, tận dụng cơ hội do hội nhập đem lại.
Việc
tự do hóa thương mại, đầu tư trong một số thị trường, lĩnh vực chưa sát hợp với
thực tế phát triển của nền kinh tế. Chậm xây dựng hàng rào kỹ thuật cần thiết
và hệ thống quản lý thị trường đủ năng lực và hiệu quả để bảo vệ thị trường
trong nước, duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, ngăn chặn gian
lận thương mại, hàng giả, hàng lậu và hàng độc hại.
Những
hạn chế, yếu kém nêu trên chủ yếu là do nhận thức về nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa còn chưa đủ rõ, nhất là về kinh tế nhà nước, doanh
nghiệp nhà nước, kinh tế tập thể, cơ chế phân bổ nguồn lực, sở hữu đất đai, cơ
chế giá một số hàng hóa, dịch vụ công thiết yếu. Chưa thật sự phát huy đầy đủ
quyền tự do kinh doanh của người dân theo quy định của Hiến pháp, pháp luật. Cơ
chế thực thi và phối kết hợp giữa các bộ, ngành, địa phương trong quán triệt,
tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách và pháp luật còn kém hiệu lực,
hiệu quả. Cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát và xử lý vi phạm còn yếu; năng
lực phân tích, dự báo và điều chỉnh chủ trương, cơ chế, chính sách còn hạn chế.
Trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XI, đất nước chịu tác
động tiêu cực của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, trong
khi đó, trình độ, năng lực nội tại của nền kinh tế và năng lực xây dựng, thực
thi thể chế kinh tế còn nhiều bất cập.
2- Phương hướng, nhiệm vụ
Phương hướng, mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa
Tiếp
tục thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt
Nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất
tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình
thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ
thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp
luật; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các
nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn
lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ
chế thị trường. Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể
chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử
dụng các nguồn lực của Nhà nước và công cụ, chính sách để định hướng và điều
tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện
tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy
vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội.
Những
nhận thức trên đây có giá trị định hướng lâu dài trong suốt thời kỳ quá độ, cần
tiếp tục cụ thể hóa phù hợp với từng giai đoạn phát triển.
Đến
năm 2020, phấn đấu cơ bản hoàn thiện đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh tế
thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; bảo đảm tính đồng bộ giữa thể chế kinh
tế và thể chế chính trị, giữa Nhà nước và thị trường; bảo đảm sự hài hòa giữa
tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển con người, thực hiện
tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, phát
triển xã hội bền vững; chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế gắn với xây
dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; bảo đảm tính công khai, minh bạch, tính dự
báo được trong xây dựng và thực thi thể chế kinh tế, tạo điều kiện ổn định,
thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần
kinh tế, các loại hình doanh nghiệp
Thể
chế hóa quyền tài sản (bao gồm quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt và
hưởng lợi từ sử dụng tài sản) của Nhà nước, tổ chức và cá nhân đã được quy định
trong Hiến pháp năm 2013. Bảo đảm minh bạch về nghĩa vụ và trách nhiệm trong
thủ tục hành chính nhà nước và dịch vụ công để quyền tài sản được giao dịch
thông suốt. Bảo đảm quyền quản lý, thu lợi của Nhà nước đối với tài sản công và
quyền bình đẳng trong việc tiếp cận tài sản công của mọi chủ thể trong nền kinh
tế. Nâng cao năng lực của các thiết chế và hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh
chấp dân sự, tranh chấp kinh tế trong bảo vệ quyền tài sản.
Mọi
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều phải hoạt động theo cơ chế thị
trường, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật. Có chính sách thúc đẩy phát
triển các doanh nghiệp Việt
Tiếp
tục đẩy mạnh cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước theo hướng : doanh nghiệp nhà
nước tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng
và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế khác không đầu tư. Đẩy mạnh cổ phần hóa, bán vốn mà Nhà nước không cần
nắm giữ, bao gồm cả những doanh nghiệp đang kinh doanh có hiệu quả; hoàn thiện
thể chế định giá đất đai, tài sản hữu hình và tài sản vô hình (tài sản trí tuệ,
thương hiệu,...) trong cổ phần hóa theo nguyên tắc thị trường. Tách bạch nhiệm
vụ sản xuất kinh doanh và nhiệm vụ chính trị, công ích. Tách chức năng chủ sở
hữu tài sản, vốn của Nhà nước và chức năng quản lý nhà nước, chức năng quản trị
kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước; sớm xoá bỏ chức năng đại diện chủ sở hữu
nhà nước của các bộ, ủy ban nhân dân đối với vốn, tài sản nhà nước tại các
doanh nghiệp. Thành lập một cơ quan chuyên trách làm đại diện chủ sở hữu đối
với doanh nghiệp nhà nước. Kiện toàn đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và nâng
cao năng lực quản trị, quản lý doanh nghiệp nhà nước phù hợp với chuẩn mực quốc
tế. Tăng cường quản lý, giám sát, kiểm tra, kiểm soát bảo đảm công khai, minh bạch
về đầu tư, tài chính và các hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Đổi mới tổ
chức và cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công theo hướng nâng cao chế
độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tổ chức bộ máy, biên chế, nhân sự và tài
chính; xã hội hóa lĩnh vực dịch vụ công, thu hút các thành phần kinh tế tham
gia vào lĩnh vực này.
Tiếp
tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của kinh tế tập thể, kinh tếhợp
tác xã; đẩy mạnh liên kết và hợp tác dựa trên quan hệ lợi ích, áp dụng phương
thức quản lý tiên tiến, phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước có cơ chế,
chính sách hỗ trợ về tiếp cận nguồn vốn, đào tạo nguồn nhân lực, chuyển giao kỹ
thuật, công nghệ, hỗ trợ phát triển thị trường, tạo điều kiện phát triển kinh
tế hợp tác xã trên cơ sở phát triển và phát huy vai trò của kinh tế hộ.
Khuyến
khích phát triển các loại hình doanh nghiệp, các hình thức tổ chức sản xuất
kinh doanh với sở hữu hỗn hợp, nhất là các doanh nghiệp cổ phần.
Hoàn
thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư
nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động lực quan trọng
của nền kinh tế. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và
vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp. Khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế tư
nhân đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước.
Nâng
cao hiệu quả thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài, chú trọng chuyển giao
công nghệ, trình độ quản lý và thị trường tiêu thụ sản phẩm; chủ động lựa chọn
và ưu đãi đối với các dự án đầu tư nước ngoài có trình độ quản lý và công nghệ
hiện đại, có vị trí hiệu quả trong chuỗi giá trị toàn cầu, có liên kết với
doanh nghiệp trong nước. Tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài với doanh nghiệp trong nước nhằm phát triển công nghiệp hỗ trợ và
công nghiệp quy mô lớn, chất lượng cao, gắn với các chuỗi giá trị khu vực và
toàn cầu.
Trong
quản lý và phát triển các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, cần phát
huy mặt tích cực có lợi cho đất nước, đồng thời kiểm tra, giám sát, kiểm soát,
thực hiện công khai, minh bạch, ngăn chặn, hạn chế mặt tiêu cực.
Phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường
Thực
hiện nhất quán cơ chế giá thị trường; bảo đảm tính đúng, tính đủ và công khai,
minh bạch các yếu tố hình thành giá đối với hàng hóa, dịch vụ công thiết yếu;
đồng thời có chính sách hỗ trợ phù hợp cho đối tượng chính sách và người nghèo.
Không lồng ghép các chính sách xã hội trong giá. Hoàn thiện pháp luật về phí,
lệ phí; rà soát, chuyển đổi chính sách phí, lệ phí đối với một số dịch vụ công
sang áp dụng chế độ giá dịch vụ. Mở rộng cơ chế đấu thầu, đấu giá, thẩm định
giá. Đẩy mạnh hoàn thiện thể chế bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, phát huy đầy
đủ, đúng đắn vai trò của người tiêu dùng, các hội bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng trong nền kinh tế.
Tiếp
tục phát triển đồng bộ và vận hành thông suốt các loại thị trường. Thực hiện đa
dạng hóa thị trường hàng hóa, dịch vụ theo hướng hiện đại, chú trọng hình thành
khung pháp lý, phát triển hệ thống phân phối thông suốt và hiệu quả. Cơ cấu lại
thị trường tài chính, bảo đảm lành mạnh hóa và ổn định vững chắc kinh tế vĩ mô,
loại bỏ nguy cơ mất an toàn hệ thống, phục vụ có hiệu quả phát triển sản xuất
kinh doanh; bảo đảm nguyên tắc thị trường đối với thị trường tài chính gắn với
tăng cường quản lý, kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước và giám sát của xã hội;
phát triển thị trường mua bán nợ, thị trường các công cụ phái sinh, cho thuê
tài sản. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách để thị
trường bất động sản vận hành thông suốt, phù hợp quy luật cung - cầu nhằm khai
thác, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả nguồn lực từ đất đai và tài sản, kết cấu
hạ tầng trên đất; ngăn ngừa đầu cơ, lãng phí. Hoàn thiện cơ chế, chính sách để
phát triển đồng bộ, liên thông thị trường lao động cả về quy mô, chất lượng lao
động và cơ cấu ngành nghề. Tiếp tục đổi mới, phát triển mạnh mẽ và đồng bộ thị
trường khoa học - công nghệ, thực hiện cơ chế thị trường và có chính sách hỗ
trợ để khuyến khích các tổ chức, cá nhân, nhất là doanh nghiệp đầu tư nghiên
cứu, phát triển, chuyển giao công nghệ, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ
vào sản xuất kinh doanh.
Đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế
Tiếp
tục nghiên cứu, đàm phán, ký kết, chuẩn bị kỹ các điều kiện thực hiện các hiệp
định thương mại tự do thế hệ mới, tham gia các điều ước quốc tế trongcác lĩnh
vực kinh tế, thương mại, đầu tư,... Chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc
tế; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào một
thị trường, một đối tác cụ thể; kết hợp hiệu quả ngoại lực và nội lực, gắn với
xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.
Rà
soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm thực thi có hiệu
quả các hiệp định thương mại tự do mà Việt
Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý
của Nhà nước về kinh tế - xã hội và phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong
phát triển kinh tế - xã hội
Nâng
cao năng lực hoạch định đường lối, chủ trương phát triển kinh tế - xã hội của
Đảng; tăng cường lãnh đạo việc thể chế hóa và việc tổ chức thực hiện đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về kinh tế - xã hội;
tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết thực hiện đường lối,
chủ trương, nghị quyết của Đảng; lãnh đạo việc bố trí cán bộ và lãnh đạo, chỉ
đạo việc thực hiện của đội ngũ cán bộ hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế - xã
hội. Nâng cao năng lực và hiệu quả công tác tham mưu về kinh tế - xã hội ở các
cấp, các ngành.
Nhà
nước thể chế hóa nghị quyết của Đảng, xây dựng, tổ chức thực hiện luật pháp,
chính sách, bảo đảm các loại thị trường ngày càng hoàn thiện và vận hành thông
suốt, cạnh tranh công bằng, bình đẳng và kiểm soát độc quyền kinh doanh; tiếp
tục đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp, cải thiện môi trường đầu tư,
kinh doanh.
Đổi
mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát huy vai trò làm chủ của nhân dân;
bảo đảm quyền tự do, dân chủ trong hoạt động kinh tế của người dân theo quy
định của Hiến pháp, pháp luật và sự tham gia có hiệu quả của Mặt trận Tổ quốc
và các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng và giám sát việc thực hiện thể
chế kinh tế và phát triển kinh tế - xã hội.
V- ĐỔI MỚI CĂN BẢN VÀ TOÀN DIỆN GIÁO DỤC, ĐÀO TẠO; PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC
1- Tình hình
Các
nghị quyết của Đảng về giáo dục, đào tạo được lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực
hiện, đạt được những thành quả nhất định. Quy mô, mạng lưới cơ sở giáo dục và
đào tạo tiếp tục được mở rộng. Hệ thống giáo dục và đào tạo các cấp từ cơ sở
đến đại học, dạy nghề được tổ chức lại một bước. Quan tâm đầu tư cho giáo dục,
đào tạo (bằng 20% tổng chi ngân sách nhà nước). Chất lượng giáo dục và đào tạo
có tiến bộ. Cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục, đào tạo được cải thiện và có
bước hiện đại hóa. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục phát triển cả về
số lượng và chất lượng. Xã hội hóa giáo dục được đẩy mạnh. Công tác quản lý
giáo dục và đào tạo có bước chuyển biến. Chủ trương đầu tư cho giáo dục là đầu
tư cho con người đã được các cấp ủy, chính quyền quan tâm chỉ đạo thực hiện và
nhận được sự ủng hộ của toàn xã hội.
Tuy
nhiên, chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu, nhất
là giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp. Hệ thống giáo dục và đào tạo thiếu
liên thông giữa các trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo; còn
nặng lý thuyết, nhẹ thực hành. Đào tạo thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học,
sản xuất kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động; chưa chú trọng đúng mức
việc giáo dục đạo đức, lối sống và kỹ năng làm việc. Phương pháp giáo dục, việc
thi, kiểm tra và đánh giá kết quả còn lạc hậu, thiếu thực chất. Quản lý giáo
dục và đào tạo có mặt còn yếu kém. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục
bất cập về chất lượng, số lượng và cơ cấu. Đầu tư cho giáo dục và đào tạo chưa
hiệu quả. Chính sách, cơ chế tài chính cho giáo dục và đào tạo chưa phù hợp. Cơ
sở vật chất - kỹ thuật còn thiếu và lạc hậu, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng
đặc biệt khó khăn.
2- Phương hướng, nhiệm vụ
Giáo
dục là quốc sách hàng đầu. Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ
yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người
học; học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn. Phát triển giáo dục và đào
tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, với tiến bộ khoa học và công nghệ, với quy hoạch và phát triển nguồn nhân
lực.
Phấn đấu trong những năm tới, tạo
chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng
ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của
nhân dân. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt
Tiếp tục đổi mới mạnh
mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát
triển phẩm chất, năng lực của người học. Đổi mới chương trình, nội dung giáo
dục theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực, phù hợp với lứa tuổi, trình độ
và ngành nghề. Đa dạng hóa nội dung, tài liệu học tập, đáp ứng yêu cầu của các
bậc học, các chương trình giáo dục, đào tạo và nhu cầu học tập suốt đời của mọi
người. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học, hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết
quả giáo dục, đào tạo, bảo đảm trung thực, khách quan.
Hoàn thiện hệ thống
giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng
xã hội học tập. Quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục
đại học gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển
nguồn nhân lực. Tăng tỉ lệ trường ngoài công lập đối với giáo dục nghề nghiệp
và giáo dục đại học.
Đổi
mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống nhất;
tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo; coi
trọng quản lý chất lượng. Giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các cơ sở
giáo dục, đào tạo; thực hiện giám sát của các chủ thể trong nhà trường và xã
hội, tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra của cơ quan quản lý các cấp, bảo
đảm dân chủ, công khai, minh bạch.
Phát triển đội ngũ nhà
giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo. Thực hiện chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo theo từng cấp học
và trình độ đào tạo.
Đổi mới chính sách, cơ
chế tài chính, huy động sự tham gia đóng góp của toàn xã hội; nâng cao hiệu quả
đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo. Nhà nước giữ vai trò chủ
đạo trong đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo, ngân sách nhà nước chi cho
giáo dục và đào tạo tối thiểu ở mức 20% tổng chi ngân sách; nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn ngân sách nhà nước. Đổi mới và hoàn thiện cơ chế, chính sách giá
dịch vụ giáo dục - đào tạo. Đẩy mạnh xã hội hóa, trước hết đối với giáo dục
nghề nghiệp và giáo dục đại học. Tiếp tục thực hiện mục tiêu kiên cố hóa
trường, lớp học; từng bước hiện đại hóa cơ sở vật chất - kỹ thuật, đặc biệt là
hạ tầng công nghệ thông tin.
Nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu và
ứng dụng khoa học, công nghệ, đặc biệt là khoa học giáo dục và khoa học quản lý. Khuyến khích thành lập
viện, trung tâm nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, doanh nghiệp khoa học và
công nghệ. Nghiên cứu sáp nhập một số tổ chức nghiên cứu khoa học và triển khai
công nghệ với các trường đại học công lập.
Xây
dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho đất nước nói chung và cho từng
ngành, từng lĩnh vực nói riêng, với những giải pháp đồng bộ, trong đó tập trung
cho giải pháp đào tạo, đào tạo lại nguồn nhân lực trong nhà trường cũng như
trong quá trình sản xuất kinh doanh.
VI- PHÁT TRIỂN VÀ ỨNG DỤNG KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ
1- Tình hình
Trong
thời gian qua, khoa học, công nghệ đã có đóng góp tích cực cho phát triển kinh
tế - xã hội trên tất cả các lĩnh vực. Khoa học xã hội và nhân văn góp phần quan
trọng trong việc cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ
trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; khẳng định lịch sử hình
thành và phát triển dân tộc, bảo vệ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ,
bảo tồn các giá trị và bản sắc văn hóa Việt Nam. Khoa học tự nhiên tiếp tục
phát triển các ngành khoa học cơ bản, cũng như những lĩnh vực khoa học và công
nghệ liên ngành, khoa học mới, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm
và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Một số ngành khoa học, công nghệ mũi nhọn đã
có đóng góp tích cực cho công tác quản lý, điều hành của Nhà nước, cho phát
triển kinh tế - xã hội và tăng cường quốc phòng, an ninh của đất nước. Hiệu quả
hoạt động khoa học, công nghệ có chuyển biến; tiềm lực khoa học, công nghệ được
nâng lên. Quản lý nhà nước về khoa học, công nghệ có đổi mới. Hợp tác quốc tế
về khoa học, công nghệ có bước tiến bộ. Thị trường khoa học, công nghệ đã hình
thành và bước đầu phát huy tác dụng.
Tuy
nhiên, khoa học, công nghệ chưa thực sự gắn kết và trở thành động lực phát
triển kinh tế - xã hội. Việc huy động nguồn lực của xã hội cho khoa học, công
nghệ chưa được chú trọng. Không hoàn thành mục tiêu xây dựng các trung tâm khoa
học lớn đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm, có tác động thúc đẩy phát triển kinh
tế - xã hội. Đầu tư cho khoa học, công nghệ còn thấp, hiệu quả sử dụng chưa
cao. Cơ chế quản lý khoa học, công nghệ chậm đổi mới. Thị trường khoa học và
công nghệ phát triển chậm. Công tác quy hoạch, phát triển khoa học, công nghệ
chưa gắn kết chặt chẽ với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc
phòng, an ninh. Hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ còn thiếu định hướng
chiến lược, hiệu quả thấp.
2- Phương hướng, nhiệm vụ
Phát
triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ, làm cho khoa học và công nghệ thực sự là
quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản
xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và
sức cạnh tranh của nền kinh tế; bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Đến năm 2020, khoa học và công nghệ Việt
Phát
triển và ứng dụng khoa học, công nghệ là một nội dung cần được ưu tiên tập
trung đầu tư trước một bước trong hoạt động của các ngành, các cấp. Các chương
trình, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội đều phải xây dựng trên những
cơ sở khoa học vững chắc, xác định rõ các giải pháp công nghệ hiện đại phù hợp
nhằm nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ
và đồng bộ về tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động, công tác xây dựng
chiến lược, kế hoạch phát triển khoa học và công nghệ; phương thức đầu tư, cơ
chế tài chính, chính sách cán bộ, cơ chế tự chủ của các tổ chức khoa học và
công nghệ phù hợp với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên
và tập trung mọi nguồn lực quốc gia cho phát triển khoa học và công nghệ. Xây
dựng chiến lược phát triển công nghệ của đất nước, chiến lược thu hút công nghệ
từ bên ngoài và chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp FDI đang hoạt động
trên đất nước ta.
Tiếp
tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ cơ chế quản lý, tổ chức, hoạt động khoa học và
công nghệ, nhất là cơ chế quản lý, phương thức đầu tư và cơ chế tài chính.
Có
cơ chế thúc đẩy đổi mới công nghệ theo hướng ứng dụng công nghệ mới, công nghệ
hiện đại. Huy động mạnh mẽ nguồn vốn xã hội và các nguồn vốn nước ngoài đầu tư
cho phát triển khoa học và công nghệ.
Quy
hoạch, sắp xếp lại hệ thống tổ chức khoa học và công nghệ; xây dựng một số
trung tâm nghiên cứu hiện đại. Phát triển, nâng cao năng lực hệ thống các tổ
chức dịch vụ khoa học và công nghệ, phát triển thị trường khoa học và công
nghệ.
Thực
hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ công
lập. Tăng cường liên kết giữa tổ chức khoa học và công nghệ với doanh nghiệp.
Xây
dựng và thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng, đãi ngộ, tôn vinh
đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ, nhất là các chuyên gia giỏi, có nhiều
đóng góp. Tạo môi trường thuận lợi, điều kiện vật chất để cán bộ khoa học và
công nghệ phát triển bằng tài năng và hưởng lợi ích xứng đáng với giá trị lao
động sáng tạo của mình. Thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng
trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo, tư vấn, phản biện của các nhà khoa học.
Kiện
toàn, nâng cao năng lực bộ máy và đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về khoa học
và công nghệ. Hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ,
tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng sản phẩm, hàng hóa theo hướng hỗ
trợ hiệu quả cho việc vận hành thị trường khoa học và công nghệ.
Phát
huy và tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ quốc gia. Tập trung đầu tư
phát triển một số viện khoa học và công nghệ, trường đại học cấp quốc gia và
một số khu công nghệ cao, vùng kinh tế trọng điểm theo mô hình tiên tiến của
thế giới.
VII- PHÁT TRIỂN VĂN HÓA, XÂY DỰNG CON NGƯỜI
1- Tình hình
Sự
nghiệp phát triển văn hóa và xây dựng con người đã được Đảng, Nhà nước quan tâm
trong các chính sách kinh tế - xã hội từ trung ương đến các địa phương. Thực
hiện nhiệm vụ xây dựng con người đáp ứng yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế có bước chuyển biến quan trọng : Gắn nhiệm vụ
xây dựng con người với nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước, bước đầu hình
thành những giá trị mới về con người với các phẩm chất về trách nhiệm xã hội, ý
thức công dân, dân chủ, chủ động, sáng tạo, khát vọng vươn lên. Hệ thống thể
chế và thiết chế văn hóa từng bước được tăng cường. Nhiều giá trị văn hóa
truyền thống của dân tộc và của từng vùng, miền được kế thừa; nhiều di sản văn
hóa được bảo tồn, tôn tạo. Xã hội hóa hoạt động văn hóa ngày càng mở rộng. Văn
học, nghệ thuật có bước phát triển. Truyền thông đại chúng phát triển nhanh cả
về loại hình, quy mô, lực lượng, phương tiện kỹ thuật và ảnh hưởng xã hội. Đời
sống văn hóa của nhân dân được cải thiện. Phong trào "Toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hóa" đã khơi dậy được nhiều giá trị nhân văn trong
cộng đồng. Việc xây dựng môi trường văn hóa đã được chú trọng hơn. Công tác
quản lý nhà nước về văn hóa được tăng cường. Giao lưu và hợp tác quốc tế về văn
hóa có nhiều khởi sắc.
Chủ
trương của Đảng gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển, xây
dựng con người và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội đã trở thành tư tưởng chỉ
đạo cho nhiều chương trình, kế hoạch phát triển. Sự vào cuộc của cả hệ thống
chính trị cùng với sự đầu tư của Nhà nước, sự tham gia của nhân dân là những
nhân tố quyết định tạo ra những chuyển biến của sự nghiệp phát triển văn hóa,
xây dựng con người.
Tuy
nhiên, so với những thành quả trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an
ninh, đối ngoại, thành quả trong lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng; chưa đủ để
tác động có hiệu quả xây dựng con người và môi trường văn hóa lành mạnh. Tình
trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng và trong xã
hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Đời sống văn hóa tinh thần ở nhiều nơi còn
nghèo nàn, đơn điệu; khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa miền núi, vùng sâu,
vùng xa với đô thị và trong các tầng lớp nhân dân chậm được rút ngắn. Môi
trường văn hóa còn tồn tại những biểu hiện thiếu lành mạnh, ngoại lai, trái với
thuần phong mỹ tục; tệ nạn xã hội và một số loại tội phạm có chiều hướng gia
tăng. Việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa đạt hiệu quả chưa cao. Hệ
thống thông tin đại chúng phát triển thiếu quy hoạch khoa học, gây lãng phí
nguồn lực và quản lý không theo kịp sự phát triển. Một số cơ quan truyền thông
có biểu hiện thương mại hóa, xa rời tôn chỉ, mục đích. Hệ thống thiết chế văn
hóa và cơ sở vật chất - kỹ thuật cho hoạt động văn hóa còn thiếu và yếu, có nơi
xuống cấp, thiếu đồng bộ, hiệu quả sử dụng thấp. Tình trạng nhập khẩu, quảng
bá, tiếp thu dễ dãi, thiếu chọn lọc sản phẩm văn hóa nước ngoài đã tác động
tiêu cực đến đời sống văn hóa của một bộ phận nhân dân, nhất là lớp trẻ.
Nguyên
nhân của những hạn chế, yếu kém trên đây chủ yếu là do nhiều cấp ủy, chính
quyền chưa quan tâm đầy đủ lĩnh vực này; lãnh đạo, chỉ đạo chưa thật quyết
liệt. Việc cụ thể hóa, thể chế hóa nghị quyết của Đảng còn chậm, thiếu đồng bộ.
Công tác quản lý nhà nước về văn hóa chậm được đổi mới, có lúc, có nơi bị xem
nhẹ, thậm chí buông lỏng. Đầu tư cho lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng và còn
dàn trải.
2- Phương hướng, nhiệm vụ
Các
cấp, các ngành phải nhận thức đầy đủ và thực hiện có kết quả mục tiêu : Xây
dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân -
thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn
hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội
sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì
mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
Xây
dựng con người Việt
Xây
dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Xây dựng môi trường văn
hóa, đời sống văn hóa lành mạnh trong hệ thống chính trị, trong mỗi địa phương,
trong từng cộng đồng làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và mỗi
gia đình, góp phần giáo dục, rèn luyện con người về nhân cách, đạo đức, lối
sống. Thực hiện chiến lược phát triển gia đình Việt
Xây
dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế. Chú trọng chăm lo xây dựng văn hóa
trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể; coi đây là nhân tố quan
trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Thường xuyên quan
tâm xây dựng văn hóa trong kinh tế. Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa
doanh nhân với ý thức thượng tôn pháp luật, giữ chữ tín, cạnh tranh lành mạnh
vì sự phát triển bền vững của đất nước, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nâng
cao chất lượng, hiệu quả hoạt động văn hóa. Huy động sức mạnh của toàn xã hội
nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc; khích lệ sáng
tạo các giá trị văn hóa mới, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm giàu văn
hóa dân tộc. Xây dựng cơ chế để giải quyết hợp lý, hài hòa giữa bảo tồn, phát
huy di sản văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội. Phát triển sự nghiệp văn
học, nghệ thuật, tạo mọi điều kiện cho sự tìm tòi, sáng tạo của đội ngũ văn nghệ
sĩ. Đổi mới phương thức hoạt động của các hội văn học, nghệ thuật. Quy hoạch,
sắp xếp lại hệ thống báo chí đáp ứng yêu cầu phát triển, bảo đảm thiết thực,
hiệu quả. Chú trọng công tác quản lý các loại hình thông tin trên Internet để
định hướng tư tưởng và thẩm mỹ cho nhân dân, nhất là cho thanh niên, thiếu
niên.Các cơ quan truyền thông phải thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích, đối tượng
phục vụ chủ yếu, nâng cao tính tư tưởng, nhân văn và khoa học, đề cao trách
nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, góp phần xây dựng văn hóa và con người Việt
Nam.
Phát
triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa.
Có cơ chế khuyến khích đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật và công
nghệ tiên tiến để nâng cao chất lượng sản phẩm văn hóa. Tạo thuận lợi cho các
doanh nghiệp văn hóa, văn nghệ, thể thao, du lịch thu hút các nguồn lực xã hội
để phát triển. Đổi mới, hoàn thiện thể chế, tạo môi trường pháp lý thuận lợi để
xây dựng, phát triển thị trường văn hóa lành mạnh; đẩy mạnh phát triển công
nghiệp văn hóa; tăng cường quảng bá văn hóa Việt Nam. Nâng cao ý thức thực thi
các quy định pháp luật về quyền tác giả và các quyền liên quan trong toàn xã
hội.
Chủ
động hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Chủ động
mở rộng hợp tác văn hóa với các nước, thực hiện đa dạng các hình thức văn hóa
đối ngoại, đưa các quan hệ quốc tế về văn hóa đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả
thiết thực; tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, làm phong phú thêm
văn hóa dân tộc. Chủ động đón nhận cơ hội phát triển, vượt qua các thách thức
để giữ gìn, hoàn thiện bản sắc văn hóa dân tộc; hạn chế, khắc phục những ảnh
hưởng tiêu cực, mặt trái của toàn cầu hóa về văn hóa.
Tiếp
tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản
lý nhà nước đối với lĩnh vực văn hóa. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
theo hướng vừa bảo đảm để văn hóa, văn học - nghệ thuật, báo chí phát triển
đúng định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng, vừa bảo đảm quyền tự do, dân chủ
cá nhân trong sáng tạo trên cơ sở phát huy trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công
dân với mục đích đúng đắn; khắc phục tình trạng buông lỏng sự lãnh đạo hoặc mất
dân chủ, hạn chế tự do sáng tạo.
Tập
trung đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa đáp ứng
yêu cầu phát triển bền vững. Đẩy nhanh việc thể chế hóa, cụ thể hóa các quan
điểm, đường lối của Đảng về văn hóa. Hoàn thiện các thiết chế văn hóa và hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách về văn hóa, về quyền tác
giả và các quyền liên quan, phù hợp với chuẩn mực quốc tế và thực tiễn Việt
Nam.
Xây
dựng chiến lược phát triển đội ngũ cán bộ văn hóa. Coi trọng quy hoạch, đào
tạo, bồi dưỡng, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa, cán bộ làm công tác
khoa học, chuyên gia đầu ngành, cán bộ ở cơ sở.
Mức
đầu tư của Nhà nước cho văn hóa phải tương ứng với mức tăng trưởng kinh tế. Đẩy
mạnh xã hội hóa nhằm huy động các nguồn đầu tư, tài trợ, hiến tặng cho phát
triển văn hóa, xây dựng con người.
VIII- QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI; THỰC HIỆN TIẾN BỘ, CÔNG BẰNG XÃ
HỘI
1- Tình hình
Trong
những năm qua, đời sống và thu nhập của người dân không ngừng được nâng lên.
Đảng và Nhà nước luôn quan tâm xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách an
sinh xã hội, phúc lợi xã hội, dân tộc, tôn giáo để giải quyết các vấn đề xã
hội. Nhận thức của toàn xã hội về tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn
hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội được nâng lên. Hệ thống luật pháp và
chính sách được bổ sung nhằm điều tiết các quan hệ xã hội. Ngân sách nhà nước dành
cho các chương trình quốc gia nhằm thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội tăng.
Việt
Mặc
dù vậy, quản lý phát triển, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội còn nhiều hạn
chế, khuyết điểm. Sự phát triển các lĩnh vực, các vùng, miền thiếu đồng bộ.
Việc giải quyết một số vấn đề xã hội chưa hiệu quả; mục tiêu xây dựng quan hệ
hài hòa giữa các lĩnh vực, ngành nghề, vùng, miền chưa đạt yêu cầu; giảm nghèo
chưa bền vững, chênh lệch giàu - nghèo và bất bình đẳng có xu hướng gia tăng.
Chưa nhận thức đầy đủ vai trò của phát triển xã hội hài hòa, chưa có chính
sách, giải pháp kịp thời, hiệu quả đối với vấn đề biến đổi cơ cấu, phân hóa
giàu - nghèo, phân tầng xã hội, kiểm soát rủi ro, giải quyết mâu thuẫn xã hội,
bảo đảm an toàn xã hội, an ninh cho con người.
Nhiều
lĩnh vực của phát triển bền vững chưa được nghiên cứu đầy đủ. Quản lý phát
triển xã hội chưa xác định rõ định hướng và những nhiệm vụ mang tính tổng thể,
đồng bộ, liên vùng, liên ngành, liên lĩnh vực, còn bị chia cắt theo vùng, lĩnh
vực quản lý. Hệ thống chính sách, pháp luật chưa đồng bộ. Chưa thể chế hóa và
chưa có sự quản lý thống nhất ở cấp vĩ mô về phát triển xã hội bền vững. Hệ
thống văn bản pháp lý về phát triển của từng ngành, địa phương chưa đồng bộ,
thiếu nhất quán; nhiều kế hoạch phát triển của từng lĩnh vực, địa phương chưa
chú ý đúng mức đến phát triển xã hội bền vững của vùng, liên vùng và quốc gia.
2- Phương hướng, nhiệm vụ
Nhận
thức sâu sắc vị trí, tầm quan trọng của phát triển xã hội bền vững và quản lý
phát triển xã hội đối với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng, thực
hiện các chính sách phù hợp với các giai tầng xã hội; có các giải pháp quản lý
hiệu quả để giải quyết hài hòa các quan hệ xã hội, ngăn chặn, giải quyết có
hiệu quả những bức xúc, mâu thuẫn có thể dẫn đến xung đột trong xã hội. Trong
xây dựng và thực hiện các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, quan tâm
thích đáng đến các tầng lớp, bộ phận yếu thế trong xã hội, đồng bào các dân tộc
thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, khắc phục xu hướng gia tăng phân hóa
giàu - nghèo, bảo đảm sự ổn định và phát triển xã hội bền vững.
Thực
hiện các giải pháp, chính sách và quản lý để khắc phục từng bước sự mất cân đối
về phát triển đối với từng lĩnh vực, từng vùng, bảo đảm sự hài hòa cả trong
phát triển, hưởng thụ; bảo đảm cơ cấu giai tầng xã hội, dân cư, ngành nghề hợp
lý. Kịp thời kiểm soát và xử lý các rủi ro, mâu thuẫn, xung đột xã hội. Đẩy
mạnh các giải pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội; giảm thiểu
tai nạn giao thông. Gắn kết chặt chẽ chính sách kinh tế với chính sách xã hội,
phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, bảo đảm để
nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của công cuộc đổi mới. Mọi
người dân đều có cơ hội và điều kiện phát triển toàn diện. Thực hiện tốt chính
sách chăm sóc người có công trên cơ sở huy động mọi nguồn lực xã hội kết hợp
với nguồn lực của Nhà nước; bảo đảm người có công có mức sống từ trung bình trở
lên.
Giải quyết tốt lao động, việc làm và thu nhập cho người lao động
Tạo
cơ hội để mọi người có việc làm và cải thiện thu nhập. Bảo đảm tiền lương, thu
nhập công bằng, đủ điều kiện sống và tái sản xuất sức lao động. Huy động tốt
nhất nguồn lực lao động để phục vụ công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Chú
trọng giải quyết việc làm cho lao động dôi dư từ khu vực nông nghiệp do việc
tích tụ, tập trung ruộng đất hoặc thu hồi đất phát triển công nghiệp, đô thị và
các công trình công cộng. Khuyến khích đầu tư xã hội tạo ra nhiều việc làm,
nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính
sách về tiền lương, tiền công, khắc phục cơ bản những bất hợp lý. Điều chỉnh
chính sách dạy nghề, gắn đào tạo với sử dụng. Điều chỉnh chính sách xuất khẩu
lao động hợp lý. Hoàn thiện và thực hiện chính sách bảo hộ lao động.
Bảo
đảm an sinh xã hội. Tiếp tục hoàn thiện chính sách an sinh xã hội phù hợp với
quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Mở rộng đối tượng và nâng cao hiệu quả
của hệ thống an sinh xã hội đến mọi người dân; tạo điều kiện để trợ giúp có
hiệu quả cho tầng lớp yếu thế, dễ tổn thương hoặc những người gặp rủi ro trong
cuộc sống. Phát triển và thực hiện tốt các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm
thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp,... Chuyển từ hỗ trợ
nhân đạo sang bảo đảm quyền an sinh xã hội của công dân. Đổi mới chính sách
giảm nghèo theo hướng tập trung, hiệu quả và tiếp cận phương pháp đo lường
nghèo đa chiều nhằm bảo đảm an sinh xã hội cơ bản và tiếp cận các dịch vụ xã
hội cơ bản. Tổ chức tốt hơn việc cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản thiết yếu.
Thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ nhà ở cho các đối tượng chính sách, người
nghèo, nhân dân sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn; phát triển nhà ở xã
hội cho người thu nhập thấp, công nhân khu công nghiệp, khu chế xuất và sinh
viên,... Phát triển đa dạng các hình thức từ thiện, đẩy mạnh phong trào toàn
dân tham gia giúp đỡ những người yếu thế.
Coi trọng chăm sóc sức khỏe nhân dân, công tác dân số - kế hoạch
hóa gia đình, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em; xây dựng gia đình hạnh
phúc
Tiếp
tục đổi mới, hoàn thiện chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình, chế độ thai
sản, nghỉ dưỡng, khám chữa bệnh, bình đẳng giới. Thực hiện tốt chiến lược dân
số, gia đình, chương trình hành động vì trẻ em..., đầu tư nâng cao chất lượng
dân số, chỉ số phát triển con người, bảo đảm cân bằng tỉ lệ giới tính khi sinh
và quyền trẻ em. Huy động các nguồn lực, tiếp tục xây dựng, phát triển hệ thống
bệnh viện, trạm y tế, phòng khám bệnh. Phát triển hệ thống y tế dự phòng và các
dịch vụ y tế hiện đại. Phát triển y học dân tộc; có chính sách khuyến khích
thích đáng sản xuất và chữa bệnh bằng thuốc nam. Tiếp tục bảo đảm công bằng,
giảm chênh lệch mới trong tiếp cận chính sách chăm sóc sức khỏe nhân dân giữa
các địa bàn, các nhóm đối tượng. Ngân sách nhà nước dành cho y tế phải được
điều chỉnh theo hướng đầu tư tập trung cho các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng
xa, vùng ven biển và hải đảo nhằm tăng cường cơ sở hạ tầng, trang thiết bị y
tế, nhân lực, bảo đảm cơ hội tiếp cận bình đẳng về chăm sóc sức khỏe cho người
dân. Có lộ trình khắc phục tình trạng quá tải tại các bệnh viện lớn ở Hà Nội,
Thành phố Hồ Chí Minh và các thành phố lớn. Tiếp tục thực hiện tốt chính sách
bảo hiểm y tế cho toàn dân và từng bước đổi mới, nâng cao chất lượng dịch vụ y
tế.
Có
chính sách hợp lý trong đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển và đãi ngộ thoả đáng
đối với đội ngũ cán bộ y tế. Tiếp tục thực hiện chiến lược phát triển con
người, chính sách chăm sóc, bảo vệ sức khỏe bà mẹ, trẻ em. Phát triển thể dục,
thể thao toàn dân để góp phần nâng cao sức khỏe cho nhân dân, đồng thời làm cơ
sở để phát triển thể thao thành tích cao.
IX- TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN; BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG; CHỦ ĐỘNG PHÒNG,
CHỐNG THIÊN TAI, ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
1- Tình hình
Nhận
thức về tầm quan trọng của tài nguyên, khai thác và quản lý tài nguyên gắn với
bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu được
nâng lên và đã thu được một số kết quả bước đầu quan trọng. Nhà nước và các cơ
quan quản lý đã xây dựng và ban hành nhiều chính sách quản lý và tăng cường đầu
tư cho các lĩnh vực này. Đã thành lập được các cơ quan nghiên cứu và dự báo,
quản lý rủi ro. Hợp tác quốc tế về quản lý tài nguyên, ứng phó với biến đổi khí
hậu, phòng, chống thiên tai được đẩy mạnh; đã tham gia nhiều tổ chức của thế
giới về các lĩnh vực này.
Tuy
nhiên, tài nguyên chưa được quản lý, khai thác, sử dụng có hiệu quả và bền
vững; một số loại tài nguyên bị khai thác quá mức dẫn tới suy thoái, cạn kiệt.
Ô nhiễm môi trường tiếp tục gia tăng, có nơi nghiêm trọng; việc khắc phục hậu
quả về môi trường do chiến tranh để lại còn chậm. Đa dạng sinh học suy giảm,
nguy cơ mất cân bằng sinh thái đang diễn ra trên diện rộng, ảnh hưởng tiêu cực
đến phát triển kinh tế - xã hội, sức khỏe và đời sống nhân dân. Chất lượng công
tác dự báo và quy hoạch còn nhiều hạn chế, chưa theo kịp yêu cầu phát triển,
tính tổng thể, liên ngành, liên vùng; chưa rõ trọng tâm, trọng điểm và nguồn lực
thực hiện. Việc ứng phó với biến đổi khí hậu còn bị động, lúng túng; thiên tai
ngày càng bất thường, gây nhiều thiệt hại về người và tài sản.
2- Phương hướng, nhiệm vụ
Tăng
cường công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó với biến
đổi khí hậu phục vụ phát triển bền vững theo hướng bảo đảm tính tổng thể, liên
ngành, liên vùng, đáp ứng nhiệm vụ trước mắt và lâu dài, trong đó lợi ích lâu
dài là cơ bản, có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với từng giai đoạn. Tài nguyên
là tài sản quốc gia, nguồn lực quan trọng của đất nước, phải được đánh giá đầy
đủ, hạch toán trong nền kinh tế, được quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng tiết
kiệm, hợp lý, có hiệu quả và bền vững, gắn với mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội, quốc phòng, an ninh. Chú trọng sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo,
vật liệu mới. Ngăn chặn và từng bước khắc phục sự xuống cấp của môi trường tự
nhiên do chủ quan con người, nhất là do các dự án phát triển kinh tế gây ra.
Bảo vệ môi trường tự nhiên vừa là nội dung, vừa là mục tiêu phát triển bền
vững. Hạn chế, tiến tới khắc phục căn bản tình trạng hủy hoại, làm cạn kiệt tài
nguyên, ô nhiễm môi trường của các cơ sở sản xuất, các khu công nghiệp, khu đô
thị. Thực hiện nghiêm ngặt các biện pháp phục hồi môi trường sau khai thác khoáng
sản. Đảm bảo sự hài hòa giữa môi trường tự nhiên với môi trường sống ở các khu
công nghiệp, đô thị, dân cư. Phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với bảo vệ môi
trường, sử dụng tiết kiệm và bảo vệ tài nguyên. Tăng cường phổ biến pháp luật
và tuyên truyền trong xã hội về bảo vệ môi trường, bảo vệ tài nguyên và ứng phó
với thiên tai, biến đổi khí hậu. Tích cực hợp tác quốc tế trong việc bảo vệ môi
trường và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Đến
năm 2020, có bước chuyển biến cơ bản trong khai thác, sử dụng tài nguyên theo
hướng hợp lý, hiệu quả và bền vững, kiềm chế mức độ gia tăng ô nhiễm môi
trường, suy giảm đa dạng sinh học nhằm bảo đảm chất lượng môi trường sống, duy
trì cân bằng sinh thái, hướng tới nền kinh tế xanh, thân thiện với môi trường;
về cơ bản, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng tránh thiên tai, giảm
phát thải khí nhà kính.
Về quản lý tài nguyên
Nâng
cao trách nhiệm, hiệu quả quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên của cả hệ
thống chính trị và toàn xã hội. Đẩy mạnh điều tra, đánh giá tiềm năng, trữ
lượng, giá trị kinh tế, thực trạng và xu hướng diễn biến của các nguồn tài
nguyên quốc gia, đặc biệt là tài nguyên khoáng sản, tài nguyên nước, tài nguyên
biển. Từng bước xác định, đánh giá các giá trị, thiết lập tài khoản, hạch toán
trong nền kinh tế đối với các loại tài nguyên quốc gia. Quy hoạch, quản lý và
khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả và bền vững các nguồn tài nguyên quốc gia.
Hạn chế tối đa, từng bước tiến tới chấm dứt xuất khẩu khoáng sản thô và chỉ qua
chế biến sơ, thúc đẩy chế biến sâu. Đối với loại khoáng sản chiến lược đặc thù
như than, dầu khí,... cần có chính sách cụ thể, cân đối giữa nhập khẩu và xuất
khẩu. Đổi mới công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; xây dựng cơ sở dữ
liệu về đất đai; thúc đẩy sử dụng đất tiết kiệm, hợp lý và có hiệu quả; kết hợp
bảo vệ diện tích, độ phì nhiêu của đất canh tác nông nghiệp. Quy hoạch khai
thác, bảo vệ nguồn nước, tăng cường quản lý nguồn nước theo lưu vực sông; chủ
động hợp tác với các nước và các tổ chức quốc tế trong việc bảo vệ nguồn nước
xuyên quốc gia. Kiểm soát các hoạt động khai thác; đấu tranh, ngăn chặn tình
trạng đánh bắt mang tính hủy diệt nhằm bảo vệ nguồn lợi thủy sản, đặc biệt là
vùng gần bờ. Thúc đẩy phát triển, sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo,
các nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu mới thay thế các nguồn tài nguyên truyền
thống.
Về bảo vệ môi trường
Hoàn
thiện hệ thống pháp luật, ban hành các chế tài đủ mạnh để bảo vệ môi trường,
ngăn chặn, xử lý theo pháp luật nhằm chấm dứt tình trạng gây ô nhiễm môi trường,
tăng cường phòng ngừa và kiểm soát các nguồn gây ô nhiễm môi trường. Ngăn chặn
và từng bước khắc phục sự xuống cấp của môi trường tự nhiên. Hạn chế tiến tới
khắc phục căn bản tình trạng ô nhiễm môi trường của các cơ sở sản xuất, khu
công nghiệp, khu đô thị, làng nghề, các lưu vực sông, không để phát sinh thêm
những cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Đẩy mạnh xã hội hóa cùng với
việc bố trí nguồn lực từ ngân sách nhà nước đầu tư cho các công trình trọng
điểm phục hồi môi trường dân sinh.
Về phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu
Chủ
động xây dựng, triển khai và kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chương
trình, kế hoạch ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai cho từng
giai đoạn. Nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai, giám sát biến đổi khí
hậu và tìm kiếm, cứu nạn, cứu hộ. Đầu tư thích đáng cho các công trình trọng
điểm quốc gia, các chương trình ứng phó với biến đổi khí hậu. Thực hiện đồng bộ
các giải pháp nhằm chủ động phòng, chống, hạn chế tác động của triều cường,
ngập lụt, xâm nhập mặn do nước biển dâng đối với vùng ven biển, nhất là vùng
đồng bằng Sông Cửu Long, đồng bằng Sông Hồng, duyên hải miền Trung, trước hết
là khu vực Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Cà Mau và các thành phố ven biển
khác. Sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả, giảm mức phát thải khí nhà kính.
X- TĂNG CƯỜNG QUỐC PHÒNG, AN NINH, BẢO VỆ VỮNG CHẮC TỔ QUỐC VIỆT
NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG TÌNH HÌNH MỚI
1- Tình hình
Trong
bối cảnh quốc tế và khu vực có nhiều phức tạp, chúng ta vẫn giữ vững độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo đảm quốc phòng, an
ninh và trật tự, an toàn xã hội. Nhận thức về mục tiêu, yêu cầu bảo vệ Tổ quốc;
về vị trí, vai trò của quốc phòng, an ninh trong tình hình mới;về quan hệ đối tác,
đối tượng có bước phát triển. Chủ động, kiên quyết đấu tranh bằng các biện pháp
phù hợp, bảo vệ được chủ quyền, biển, đảo, vùng trời và giữ được hòa bình, ổn
định để phát triển đất nước. Chủ trương, giải pháp trong chiến lược quốc phòng,
quân sự, chiến lược an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội tiếp tục được bổ
sung, hoàn thiện. Thế trận quốc phòng toàn dân gắn kết chặt chẽ với thế trận an
ninh nhân dân tiếp tục được tăng cường, củng cố, nhất là trên các địa bàn chiến
lược quan trọng; sức mạnh về mọi mặt của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân
được tăng cường. Kết hợp có hiệu quả giữa nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc Việt
Tuy
nhiên, nhận thức của một số cán bộ các cấp, các ngành về nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc trong tình hình mới chưa thật đầy đủ, sâu sắc. Kết hợp giữa phát triển
kinh tế - xã hội với đảm bảo quốc phòng, an ninh trên một số lĩnh vực, địa bàn
có lúc, có nơi chưa chặt chẽ. Việc quán triệt và triển khai thực hiện nhiệm vụ
bảo vệ Tổ quốc, các nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước về quốc phòng,
an ninh của một số cấp ủy, chính quyền có nơi, có lúc chưa kiên quyết, triệt
để; còn thiếu những giải pháp mang tính chiến lược, tổng thể. Cơ chế, chính
sách, pháp luật về quốc phòng, an ninh chưa hoàn thiện.
2- Phương hướng, nhiệm vụ
Mục
tiêu trọng yếu của quốc phòng, an ninh là: Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp
của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân
dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ nền văn hóa dân
tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật
tự, an toàn xã hội.
Củng
cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị, trật tự, an toàn
xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống
chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng
cốt. Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng thế trận quốc phòng
toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Chủ động đấu tranh làm thất bại
mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; ngăn chặn, phản bác những
thông tin và luận điệu sai trái, đẩy lùi các loại tội phạm; sẵn sàng ứng phó
với các mối đe doạ an ninh phi truyền thống; bảo đảm an ninh, an toàn thông
tin, an ninh mạng. Kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ, bảo vệ vững chắc biên giới và chủ quyền biển, đảo, vùng trời của Tổ
quốc; đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển bền vững
đất nước. Giải quyết những bất đồng, tranh chấp bằng giải pháp hòa bình trên cơ
sở tôn trọng luật pháp quốc tế.
Kết
hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an
ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội, chú trọng vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo.
Khắc phục triệt để những sơ hở, thiếu sót trong việc kết hợp kinh tế và quốc
phòng, an ninh tại các địa bàn, nhất là địa bàn chiến lược. Kết hợp chặt chẽ
giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại; tăng cường hợp tác quốc tế về quốc
phòng, an ninh. Xây dựng "thế trận lòng dân", tạo nền tảng vững chắc
xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân. Có kế sách ngăn ngừa
các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, phát hiện
sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây
ra đột biến. Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh
chủng, lực lượng quan trọng; vững mạnh về chính trị, nâng cao chất lượng tổng
hợp sức mạnh chiến đấu, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước
và nhân dân. Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới,
cần tăng cường nguồn lực cho quốc phòng, an ninh. Đẩy mạnh phát triển công
nghiệp quốc phòng, an ninh theo hướng lưỡng dụng; tăng cường nguồn lực, tạo cơ
sở vật chất - kỹ thuật hiện đại cho lực lượng Quân đội nhân dân và Công an nhân
dân đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Tích cực, chủ động
chuẩn bị lực lượng đủ mạnh và các kế hoạch, phương án tác chiến cụ thể, khoa
học, sẵn sàng bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ và an ninh của Tổ quốc trong mọi tình huống. Nâng cao chất lượng công tác
dự báo tình hình. Kiên quyết giữ vững ổn định chính trị, ổn định kinh tế - xã
hội trong mọi tình huống. Xây dựng, củng cố đường biên giới trên bộ hòa bình,
hữu nghị; nâng cao năng lực thực thi pháp luật của các lực lượng làm nhiệm vụ ở
biên giới, biển, đảo.
Để
thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, phải tiếp tục giữ
vững, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản
lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân
dân và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền,
giáo dục nâng cao ý thức trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của
các cấp, các ngành, của mỗi cán bộ, đảng viên và từng người dân đối với nhiệm
vụ bảo vệ Tổ quốc. Phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả
hệ thống chính trị, do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, lực lượng vũ trang làm
nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế,
chính sách về quốc phòng, an ninh; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước
trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh.
XI- NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI, CHỦ ĐỘNG VÀ TÍCH CỰC
HỘI NHẬP QUỐC TẾ
1- Tình hình
Thực
hiện đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng, trong thời gian qua, hoạt động đối
ngoại và hội nhập quốc tế của nước ta đã đạt được những kết quả quan trọng. Môi
trường hòa bình thuận lợi cho phát triển, độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ tiếp tục được giữ vững. Quan hệ đối ngoại được mở rộng và
ngày càng đi vào chiều sâu. Quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong
ASEAN được củng cố. Đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện
với nhiều đối tác quan trọng. Hội nhập quốc tế được đẩy mạnh, góp phần quan
trọng vào việc tăng cường nguồn lực cho phát triển, thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Chủ động, tích cực tham gia các công việc chung của cộng
đồng quốc tế, các diễn đàn, tổ chức khu vực và quốc tế, nâng cao vị thế của đất
nước. Đối ngoại của Đảng, ngoại giao nhà nước và ngoại giao nhân dân được triển
khai đồng bộ, có bước phát triển mới.
Nhận
thức đúng về xu thế của thời đại và cục diện thế giới, khu vực, Đảng, Nhà nước
đã có định hướng chỉ đạo và các chính sách đúng đắn, kịp thời trên cơ sở lợi
ích quốc gia - dân tộc. Nhiều chủ trương, giải pháp xử lý các vấn đề phức tạp,
trong đó có vấn đề Biển Đông, đã tạo được sự đồng thuận cao trong toàn Đảng,
toàn dân và được dư luận quốc tế ủng hộ.
Tuy
nhiên, công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế có mặt chưa chủ động và hiệu quả
chưa cao. Chưa có giải pháp đồng bộ, hữu hiệu để hạn chế các tác động tiêu cực
trong quá trình đẩy mạnh hội nhập quốc tế. Trong nhận thức và chỉ đạo thực tiễn
có lúc chưa theo kịp những chuyển biến mau lẹ, phức tạp của tình hình thế giới
và khu vực. Sự phối hợp, kết hợp giữa các ngành, các địa phương còn thiếu chặt
chẽ. Công tác nghiên cứu chiến lược, dự báo tình hình còn hạn chế.
2- Phương hướng, nhiệm vụ
Bảo
đảm lợi ích tối caocủa quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của
luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực hiện nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương
hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là
đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Trên cơ sở
vừa hợp tác, vừa đấu tranh, hoạt động đối ngoại nhằm phục vụ mục tiêu giữ vững
môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát
triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân
dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp
phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên
thế giới.
Nâng
cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tiếp tục đưa các mối quan hệ hợp tác đi
vào chiều sâu. Chủ động và tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa
phương. Kiên quyết đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp vào
công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ,
an ninh quốc gia và ổn định chính trị của đất nước. Tiếp tục hoàn thành việc
phân định biên giới trên bộ, thúc đẩy giải quyết các vấn đề trên biển trên cơ
sở những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Công ước của Liên hợp quốc về
Luật Biển 1982 và quy tắc ứng xử của khu vực. Chú trọng phát triển quan hệ hợp
tác, hữu nghị, truyền thống với các nước láng giềng, thúc đẩy quan hệ với các
đối tác lớn, đối tác quan trọng. Chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các
nước ASEAN xây dựng Cộng đồng vững mạnh. Mở rộng, làm sâu sắc hơn và nâng cao hiệu
quả quan hệ đối ngoại của Đảng, ngoại giao nhà nước và ngoại giao nhân dân.
Triển
khai mạnh mẽ định hướng chiến lược chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Bảo
đảm hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và cả hệ thống chính trị, đẩy
mạnh hội nhập trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, gắn kết chặt chẽ và thúc đẩy
quá trình nâng cao sức mạnh tổng hợp, năng lực cạnh tranh của đất nước; hội
nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi
cho hội nhập kinh tế; hội nhập là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh, chủ động
dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không để rơi vào thế bị động, đối đầu.
Nâng
cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế,
xây dựng và triển khai chiến lược tham gia các khu vực mậu dịch tự do với các
đối tác kinh tế, thương mại quan trọng, ký kết và thực hiện hiệu quả các hiệp
định thương mại song phương, đa phương mới trong một kế hoạch tổng thể với lộ
trình hợp lý, phù hợp với lợi ích của đất nước. Đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn
quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác chiến lược và các nước lớn có vai
trò quan trọng đối với phát triển và an ninh của đất nước, đưa khuôn khổ quan
hệ đã xác lập vào thực chất. Chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ
chế đa phương, đặc biệt là ASEAN và Liên hợp quốc. Chủ động, tích cực tham gia
các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh, trong đó có việc tham gia các hoạt
động hợp tác ở mức cao hơn như hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc,
diễn tập chung và các hoạt động khác. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực
văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo và các lĩnh vực khác.
Tăng
cường công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược, tham mưu về đối ngoại; đổi mới
nội dung, phương pháp tuyên truyền đối ngoại; chăm lo đào tạo, rèn luyện đội
ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại; bồi dưỡng kiến thức đối ngoại cho cán bộ chủ
chốt các cấp.
Bảo
đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với
các hoạt động đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại
giao nhà nước và ngoại giao nhân dân; giữa ngoại giao chính trị với ngoại giao
kinh tế và ngoại giao văn hóa; giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh.
XII- PHÁT HUY SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC
1- Tình hình
Khối
đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được mở rộng, củng cố và tăng cường trong
bối cảnh đất nước có nhiều khó khăn, thách thức. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các đoàn thể nhân dân có nhiều đổi mới cả về nội dung và phương thức hoạt động;
phát huy ngày càng tốt hơn vai trò tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
tộc; cùng Đảng, Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng
của nhân dân; tham gia xây dựng Đảng, quản lý nhà nước, quản lý xã hội, góp
phần tích cực vào những thành tựu chung của đất nước. Đạt được kết quả trên là
do Đảng và Nhà nước luôn chủ trương nhất quán, phát huy cao độ sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc.
Tuy
nhiên, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ, có lúc, có
nơi chưa phát huy được vai trò, sức mạnh của nhân dân. Chưa đánh giá và dự báo
chính xác những diễn biến, thay đổi cơ cấu xã hội, tâm tư, nguyện vọng của các
tầng lớp nhân dân để có chủ trương phù hợp. Chủ trương, quan điểm của Đảng về
đại đoàn kết toàn dân tộc, về quyền và lợi ích hợp pháp của các giai cấp, tầng
lớp nhân dân chưa được kịp thời thể chế hóa, hoặc đã thể chế hóa nhưng chưa
được thực hiện nghiêm túc. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân
dân có lúc, có nơi chưa sâu sát các tầng lớp nhân dân và cơ sở, còn có biểu hiện
hành chính hóa, chưa thiết thực, hiệu quả. Những hạn chế, khuyết điểm đó là do
: Một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức chưa thật sự tôn trọng, lắng nghe ý
kiến để giải quyết kịp thời, có hiệu quả những yêu cầu, nguyện vọng chính đáng
của nhân dân. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách để thể chế hóa đường lối,
chủ trương, quan điểm của Đảng về Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân còn
thiếu và chưa đồng bộ.
2- Phương hướng, nhiệm vụ
Đại
đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt
Tiếp
tục thể chế hóa và cụ thể hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc; hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả các
cơ chế, chính sách phát huy vai trò của nhân dân trong việc quyết định những
vấn đề lớn của đất nước; khắc phục những hạn chế, bảo đảm tác dụng, hiệu quả
thực chất hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức chính trị - xã hội.
Đại
đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích
giữa các thành viên trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng
của nhân dân; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân,
bảo đảm mỗi người dân đều được thụ hưởng những thành quả của công cuộc đổi mới.
Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân tộc. Các cấp ủy đảng và chính quyền phải thường xuyên đối thoại,
lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn, vướng mắc và yêu
cầu chính đáng của nhân dân; tin dân, tôn trọng, lắng nghe những ý kiến khác;
có hình thức, cơ chế, biện pháp cụ thể, thích hợp để nhân dân bày tỏ chính
kiến, nguyện vọng và thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân; trân trọng, tôn vinh những đóng góp, cống hiến
của nhân dân.
Quan
tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng
và chất lượng; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ
năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động của công nhân; bảo
đảm việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện điều kiện làm việc, nhà ở cho công
nhân; sửa đổi, bổ sung các chính sách, pháp luật về tiền lương, bảo hiểm xã
hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp,... để bảo vệ quyền lợi, nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của công nhân.
Xây
dựng, phát huy vai trò của giai cấp nông dân, chủ thể của quá trình phát triển
nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới. Hỗ trợ, khuyến khích nông dân học nghề,
chuyển dịch cơ cấu lao động, tiếp nhận và ứng dụng tiến bộ khoa học - công
nghệ, tạo điều kiện thuận lợi để nông dân chuyển sang làm công nghiệp và dịch
vụ. Nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp, mở rộng và nâng cao chất
lượng cung ứng các dịch vụ cơ bản về điện, nước sạch, y tế, giáo dục, thông tin...,
cải thiện chất lượng cuộc sống của dân cư nông thôn; thực hiện có hiệu quả, bền
vững công cuộc xoá đói, giảm nghèo, làm giàu hợp pháp.
Xây
dựng đội ngũ trí thức ngày cànglớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu
phát triển đất nước. Tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động
nghiên cứu, sáng tạo. Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất,
năng lực và kết quả cống hiến. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ và tôn vinh
xứng đáng những cống hiến của trí thức. Có cơ chế, chính sách đặc biệt để thu
hút nhân tài của đất nước. Coi trọng vai trò tư vấn, phản biện, giám định xã
hội của các cơ quan nghiên cứu khoa học trong việc hoạch định đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các dự án phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội.
Xây
dựng, phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh, có trình độ quản lý, kinh doanh
giỏi, có đạo đức nghề nghiệp và trách nhiệm xã hội cao. Phát huy tiềm năng và
vai trò tích cực, sáng tạo của đội ngũ doanh nhân. Có cơ chế, chính sách bảo
đảm quyền lợi của đội ngũ doanh nhân. Tôn vinh những doanh nhân có nhiều đóng
góp cho sự nghiệp phát triển đất nước.
Đổi
mới nội dung, phương thức giáo dục chính trị, tư tưởng, lý tưởng, truyền thống,
bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, xây dựng đạo đức, lối sống lành mạnh cho thế hệ
trẻ. Cócơ chế, chính sách phù hợp tạo điều kiện học tập, nghiên cứu, lao động,
giải trí, phát triển trí tuệ, thể lực cho thế hệ trẻ. Khuyến khích, cổ vũ thanh
niên nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão, xung kích, sáng tạo, làm chủ khoa học, công
nghệ hiện đại. Phát huy vai trò của thế hệ trẻ trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Thu hút rộng rãi thanh niên, thiếu niên và nhi đồng tham gia các tổ
chức do Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh làm nòng cốt và phụ trách.
Nâng
cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ. Nghiên cứu, bổ
sung và hoàn thiện các luật pháp, chính sách đối với lao động nữ, tạo điều kiện
để phụ nữ thực hiện tốt vai trò và trách nhiệm của mình. Kiên quyết đấu tranh
chống các tệ nạn xã hội và xử lý nghiêm minh theo pháp luật các hành vi bạo
lực, buôn bán, xâm hại nhân phẩm phụ nữ.
Đảng,
Nhà nước có cơ chế, chính sách tạo điều kiện, đồng thời động viên cựu chiến
binh tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã
hội chủ nghĩa, giúp nhau làm kinh tế, cải thiện đời sống, tích cực tham gia
giáo dục lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa anh hùng cách mạng
cho thế hệ trẻ; tích cực tham gia đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng,
lãng phí, tội phạm và các tệ nạn xã hội; góp phần xây dựng và củng cố cơ sở
chính trị, xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh.
Quan
tâm chăm sóc sức khỏe, tạo điều kiện để người cao tuổi hưởng thụ văn hóa, tiếp
cận thông tin, sống vui, sống khỏe, sống hạnh phúc. Phát huy trí tuệ, kinh
nghiệm sống, lao động, học tập của người cao tuổi trong xã hội và gia đình.
Tiếp tục xây dựng gia đình "ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu thảo hiền, vợ
chồng hòa thuận, anh chị em đoàn kết, thương yêu nhau"; giúp đỡ người cao
tuổi cô đơn không nơi nương tựa.
Đoàn
kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của nước ta.
Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách, tạo chuyển biến rõ rệt trong phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng dân tộc thiểu số, nhất là các vùng Tây Bắc,
Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Tây duyên hải miền Trung. Nâng cao chất lượng giáo dục
- đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực và chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ người
dân tộc thiểu số. Tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực hiện các
chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở các cấp. Chống kỳ thị dân
tộc; nghiêm trị những âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân
tộc.
Tiếp
tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, phát huy những
giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Quan tâm và tạo điều kiện
cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn
giáo đã được Nhà nước công nhận, theo quy định của pháp luật. Đồng thời chủ
động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng,
tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc hoặc những hoạt động
tín ngưỡng, tôn giáo trái quy định của pháp luật.
Nhà
nước ban hành cơ chế, chính sách để hỗ trợ, giúp đỡ đồng bào định cư ở nước
ngoài ổn định cuộc sống, phát triển kinh tế, góp phần tăng cường hợp tác, hữu
nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước; được bảo hộ tính mạng, tài sản và
các quyền, lợi ích chính đáng; tạo điều kiện để đồng bào giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc; có cơ chế, chính sách thu hút đồng bào hướng về Tổ
quốc, đóng góp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Tiếp
tục tăng cường củng cố tổ chức, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Mặt trận Tổ quốc đóng vai trò nòng cốt
trong tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ,
tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát và phản biện xã hội; tham gia xây dựng
Đảng, Nhà nước, hoạt động ngoại giao nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
XIII- PHÁT HUY DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA, BẢO ĐẢM THỰC HIỆN QUYỀN
LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN
1- Tình hình
Đảng
và Nhà nước tiếp tục ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm phát
huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được xác định đầy đủ hơn
trong Hiến pháp năm 2013 và trong hệ thống pháp luật. Khẳng định rõ các quyền
con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được
công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật; gắn quyền
công dân với nghĩa vụ và trách nhiệm đối với xã hội. Ý thức về quyền và nghĩa
vụ công dân, năng lực làm chủ, tham gia quản lý xã hội của nhân dân, ý thức về
dân chủ trong xã hội được nâng lên. Việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở và
Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn có tiến bộ.
Quyền
làm chủ của nhân dân được phát huy tốt hơn trong các lĩnh vực của đời sống xã
hội bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, nhất là trong lĩnh vực chính
trị và kinh tế. Nhiều cấp ủy đảng, chính quyền đã lắng nghe, tăng cường tiếp
xúc, đối thoại với nhân dân, tôn trọng các loại ý kiến khác nhau.
Coi
trọng chăm lo hạnh phúc và sự phát triển toàn diện của con người, bảo vệ và bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của con người, tôn trọng và thực hiện
các điều ước quốc tế về quyền con người mà nước ta ký kết.
Đạt
được kết quả trên là doĐảng và Nhà nước coi trọng việc đề ra và tổ chức chỉ đạo
thực hiện nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật, quy chế, quy định mới nhằm
phát huy hơn nữa dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân.
Hiến pháp năm 2013 quy định rõ : Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công
dân.
Tuy
nhiên, nhận thức về dân chủ trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân còn
hạn chế. Tình trạng tách rời, thậm chí đối lập giữa dân chủ và kỷ cương pháp
luật trong xây dựng và thực hiện dân chủ còn tồn tại ở nhiều nơi. Quyền làm chủ
của nhân dân ở nhiều nơi, nhiều lĩnh vực còn bị vi phạm. Có lúc, có nơi, việc
thực hiện dân chủ còn hạn chế hoặc mang tính hình thức; có tình trạng lợi dụng
dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến an ninh
quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Những
hạn chế, khuyết điểm nêu trên do nhiều nguyên nhân : Hệ thống pháp luật, cơ
chế, quy chế, tổ chức và các điều kiện để thực thi dân chủ, quyền làm chủ của
nhân dân còn thiếu và chưa đồng bộ. Không ít cấp ủy đảng, cơ quan nhà nước, cán
bộ, đảng viên chưa là tấm gương về phát huy dân chủ trong xã hội.
2- Phương hướng, nhiệm vụ
Tiếp
tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước đều xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân,
được nhân dân tham gia ý kiến. Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở
tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích,
cuộc sống của nhân dân, từ nêu sáng kiến, tham gia thảo luận, tranh luận đến
giám sát quá trình thực hiện. Tập trung xây dựng những văn bản pháp luật liên
quan trực tiếp đến quyền làm chủ của nhân dân.
Cụ
thể hóa và nâng cao chất lượng các hình thức thực hiện dân chủ trực tiếp và dân
chủ đại diện. Thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân,
theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013; gắn quyền với trách nhiệm, nghĩa vụ, đề
cao đạo đức xã hội. Tiếp tục thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh
thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Đảng và Nhà nước có cơ chế, chính
sách bảo vệ và bảo đảm thực hiện tốt quyền con người, quyền công dân.
Thể
chế hóa và thực hiện tốt phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra, giám sát".
Để
thực hiện dân chủ trong xã hội, trước hết phải bảo đảm phát huy dân chủ trong
Đảnglà hạt nhân để phát huy đầy đủ dân chủ trong xã hội. Đẩy mạnh dân chủ hóa
xã hội để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, vai trò chủ động, sáng tạo của
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Tổ chức thực hiện tốt Quy chế giám
sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội;
Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân góp
ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền; Quy định về giám sát đảng viên là cán bộ
thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý và các quy định, quy chế khác.
Phát
huy dân chủ phải đi liền với tăng cường pháp chế, đề cao trách nhiệm công dân,
giữ vững kỷ luật, kỷ cương và đề cao đạo đức xã hội. Phê phán những biểu hiện
dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức. Xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng dân
chủ để làm mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và những hành vi vi
phạm quyền dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân.
XIV- HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1- Tình hình
Quan
điểm và thể chế về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được bổ sung, hoàn
thiện một bước quan trọng và cơ bản. Nhận thức của các cấp, các ngành, của cán
bộ, đảng viên và nhân dân về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân có bước phát triển. Hiến pháp năm 2013 đã
khẳng định: Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nguyên
tắc tổ chức quyền lực nhà nước được quy định đầy đủ hơn trong Hiến pháp năm
2013: quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp. Chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của tổ chức bộ
máy nhà nước được xác định rõ hơn và có những bước tiến trong hoạt động. Vai
trò của pháp luật trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, trong quản lý xã hội
ngày càng được đề cao.Cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong
tổ chức và hoạt động của Nhà nước được xác định rõ hơn và trong tổ chức thực
hiện đã có những bước tiến nhất định.
Quốc
hội có nhiều đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động. Hệ thống pháp luật tiếp
tục được hoàn thiện. Hoạt động giám sát của Quốc hội đã tập trung vào những vấn
đề bức thiết, quan trọng nhất của đất nước. Việc thảo luận, quyết định kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách nhà nước, các dự án, công trình
trọng điểm quốc gia có chất lượng và thực chất hơn. Ủy ban Thường vụ Quốc hội,
Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội có nhiều đổi mới về nội dung, phương
pháp công tác; trách nhiệm các đại biểu Quốc hội được nâng cao hơn.
Quản
lý, điều hành của Chính phủ, các bộ tập trung hơn vào quản lý vĩ mô và năng
động giải quyết những vấn đề lớn, quan trọng. Cải cách hành chính tiếp tục được
chú trọng và đạt kết quả tích cực bước đầu. Tổ chức thí điểm đổi mới về tổ chức
chính quyền địa phương (không tổ chức Hội đồng nhân dân quận, huyện, phường,
chính quyền đô thị) được tập trung chỉ đạo và tổng kết, rút kinh nghiệm.
Nhiều
chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách tư pháp được thể chế trong Hiến pháp,
pháp luật và được triển khai thực hiện nghiêm túc, đạt kết quả quan trọng. Tổ
chức bộ máy của toà án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan bổ trợ tư
pháp tiếp tục được kiện toàn; chất lượng hoạt động có tiến bộ, bảo vệ tốt hơn
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, hạn chế tình trạng oan, sai.
Tuy
nhiên, chưa chế định rõ, đồng bộ, hiệu quả cơ chế phân công, phối hợp và kiểm
soát quyền lực nhà nước ở các cấp. Tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của các
thiết chế cơ bản trong bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa như Quốc
hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, hệ thống tư pháp còn những điểm chưa thực sự hợp
lý, hiệu lực, hiệu quả. Chưa khắc phục được sự chồng chéo, vướng mắc về chức
năng, nhiệm vụ giữa các thiết chế, làm ảnh hưởng tới sự thống nhất quyền lực
nhà nước và hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Hệ thống pháp luật còn chồng chéo,
thiếu đồng bộ, nhiều nội dung chưa đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền; tính công khai, minh bạch, khả thi, ổn định còn hạn chế. Kỷ cương, kỷ
luật trong quản lý nhà nước, thực thi công vụ còn nhiều yếu kém. Cải cách hành
chính còn chậm, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu; thủ tục hành chính còn
phức tạp, phiền hà, đang là rào cản lớn đối với việc tạo lập môi trường xã hội,
môi trường kinh doanh lành mạnh, minh bạch, hiệu quả cho sự phát triển. Tổ chức
và hoạt động của chính quyền địa phương chậm đổi mới; hiệu lực, hiệu quả ở
nhiều nơi chưa cao. Tính dân chủ và pháp quyền, trách nhiệm giải trình của các
cấp chính quyền chưa được quy định rõ ràng. Việc triển khai một số nhiệm vụ cải
cách tư pháp còn chậm; vẫn còn tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực, oan, sai, tồn
đọng án, bỏ lọt tội phạm. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí trong các
cơ quan nhà nước, trong đội ngũ cán bộ, công chức chưa đạt yêu cầu đề ra. Tham
nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng.
Những
hạn chế, khuyết điểm nêu trên do nhiều nguyên nhân, trong đó nổi bật là : Xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là vấn đề mới đối với nước ta. Sự
phân định giữa vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý, điều hành của Nhà
nước còn những nội dung chưa rõ; phương thức và cơ chế lãnh đạo của Đảng đối
với Nhà nước ở các cấp còn nhiều điểm chưa được chế định rõ và phù hợp với
nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền.
2- Phương hướng, nhiệm vụ
Tiếp tục xác định xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị
Trong
tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phải thực hiện dân chủ, tuân thủ các nguyên
tắc pháp quyền và phải tạo ra sự chuyển biến tích cực, đạt kết quả cao hơn. Xây
dựng Nhà nước pháp quyền phải tiến hành đồng bộ cả lập pháp, hành pháp, tư pháp
và được tiến hành đồng bộ với đổi mới kinh tế.
Hoàn thiện thể chế, chức năng, nhiệm vụ, phương thức và cơ chế
vận hành, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Hoàn
thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức của Nhà nước theo quy định của
Hiến pháp năm 2013, đáp ứng các đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và hội nhập quốc tế. Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp
luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ. Phân định rõ hơn vai trò và hoàn thiện cơ chế giải quyết tốt mối
quan hệ giữa Nhà nước và thị trường.
Lãnh
đạo việc đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện hệ thống pháp luật
theo các nguyên tắc được quy định trong Hiến pháp năm 2013. Bảo đảm pháp luật
vừa là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội, vừa là công cụ để nhân dân kiểm tra,
giám sát quyền lực nhà nước. Quản lý đất nước theo pháp luật, đồng thời coi
trọng xây dựng nền tảng đạo đức xã hội.
Xác định rõ cơ chế phân công, phối hợp thực thi quyền lực nhà nước, nhất là cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở quyền lực nhà nước là thống nhất; xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của mỗi quyền. Đồng thời, quy định rõ hơn cơ chế phối hợp trong việc thực hiện và kiểm soát các quyền ở các cấp chính quyền. Tiếp tục phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm giữa các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương.
Hoàn thiện tổ chức và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động
của bộ máy nhà nước
Đổi
mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại
biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Quốc hội thực
hiện tốt chức năng lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám
sát tối cao, nhất là đối với việc quản lý, sử dụng các nguồn lực của đất nước.
Tổ chức thực hiện tốt Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, bảo đảm cơ cấu, nâng cao chất lượng đại biểu, tăng số lượng đại biểu chuyên trách một cách hợp lý.
Hoàn
thiện cơ chế để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động, nhất là hoạt động lập
pháp của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, cơ chế giám sát, đánh giá đối với người
giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Tăng cường hơn nữa sự gắn kết giữa
giám sát của Quốc hội với kiểm tra, giám sát của Đảng, Mặt trận Tổ quốc, các tổ
chức chính trị - xã hội và giám sát của nhân dân.
Hoàn
thiện cơ cấu tổ chức Chính phủ, xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành
pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội.
Đẩy
mạnh thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước theo hướng
xây dựng nền hành chính dân chủ, hiện đại, chuyên nghiệp, năng động, phục vụ
nhân dân, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Hoàn thiện thể chế hành chính dân
chủ - pháp quyền, quy định trách nhiệm và cơ chế giải trình của các cơ quan nhà
nước; giảm mạnh và bãi bỏ những thủ tục hành chính gây phiền hà cho người dân
và doanh nghiệp. Đề cao trách nhiệm và đạo đức công vụ, trách nhiệm xã hội,
siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong chỉ đạo và thực thi công vụ của cán bộ, công
chức; đẩy nhanh việc áp dụng chính phủ điện tử.
Tiếp
tục đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng nền tư pháp
trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân. Phân định rành mạch thẩm
quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong tổ chức, hoạt
động của các cơ quan tư pháp.
Tổ
chức toà án theo cấp thẩm quyền xét xử; bảo đảm nguyên tắc độc lập, nguyên tắc
tranh tụng trong xét xử, bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, của đương
sự.
Viện
Kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp và được
tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Toà án; tăng cường trách nhiệm của
công tố trong hoạt động điều tra.
Kiện
toàn tổ chức cơ quan điều tra, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của cơ quan điều tra.
Nâng
cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của luật sư và các tổ chức bổ trợ tư pháp.
Về
chính quyền địa phương : Trên cơ sở bảo đảm tính thống nhất, thông suốt, hiệu
lực, hiệu quả của nền hành chính quốc gia, xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm
quản lý nhà nước của mỗi cấp chính quyền địa phương. Việc hoàn thiện chức năng,
nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của chính quyền địa phương gắn kết hữu cơ với đổi mới
tổ chức và cơ chế hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã
hội ở các cấp. Hoàn thiện mô hình tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với
đặc điểm ở nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt
theo luật định.
Chú trọng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ,công chức
Đảng
tập trung lãnh đạo về đường lối, chủ trương, xây dựng tiêu chí, tiêu chuẩn, cơ
chế, chính sách cụ thể. Đẩy mạnh dân chủ hóa công tác cán bộ, quy định rõ trách
nhiệm, thẩm quyền của mỗi tổ chức, mỗi cấp trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
có phẩm chất chính trị vững vàng, có trình độ, năng lực chuyên môn phù hợp, đáp
ứng yêu cầu của giai đoạn mới. Thực hiện thí điểm dân trực tiếp bầu một số chức
danh ở cơ sở và ở cấp huyện; mở rộng đối tượng thi tuyển chức danh cán bộ quản
lý. Hoàn thiện tiêu chí đánh giá và cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc
thực thi công vụ; xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan
hành chính.
Rà
soát, sửa đổi, bổ sung chính sách đối với cán bộ, công chức theo hướng khuyến
khích cán bộ, công chức nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức công
vụ, hoàn thành tốt nhiệm vụ; khắc phục chế độ đãi ngộ theo kiểu "bình
quân".
Đẩy
mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm trong các
cơ quan nhà nước và trong đội ngũ cán bộ, công chức.
XV- XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH, NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH
ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA ĐẢNG
1- Tình hình
Cụ
thể hóa thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng về công tác xây dựng Đảng, Hội
nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã thảo luận và thống
nhất rất cao việc ban hành Nghị quyết "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng
Đảng hiện nay"(sẽ có báo cáo chuyên đề việc thực hiện Nghị
quyết Trung ương 4 khóa XI gửi đại biểu Đại hội XII).
Nhìn
chung, các cấp ủy, tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở đã tập trung lãnh đạo,
chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp được đề ra trong Nghị quyết Trung
ương 4. Quá trình thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 đã đạt được những kết quả
bước đầu quan trọng, góp phần siết lại kỷ luật, kỷ cương, có tác dụng cảnh báo,
răn đe, cảnh tỉnh và ngăn chặn các hành vi tiêu cực, tạo tiền đề đẩy mạnh công
tác xây dựng Đảng, đưa tự phê bình và phê bình trở thành công việc thường xuyên
trong Đảng. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp đã chú trọng nâng cao tinh
thần trách nhiệm, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn, đổi mới lề lối làm
việc; nghiêm khắc với mình hơn, giữ gìn đạo đức, lối sống; bước đầu tự sửa chữa
khuyết điểm, tự điều chỉnh hành vi và các hoạt động trong công tác và trong
cuộc sống của mình, của gia đình, vợ con và người thân.
Đã
nhận dạng rõ hơn, sâu sắc hơn, cảnh báo và bước đầu ngăn chặn những biểu hiện
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên.
Bước đầu kiềm chế, ngăn chặn tình trạng tham nhũng, lãng phí. Một số vụ án tham
nhũng nghiêm trọng, phức tạp đã được tập trung chỉ đạo điều tra, xét xử nghiêm
minh theo đúng quy định của pháp luật, được cán bộ, đảng viên và nhân dân hoan
nghênh, đồng tình, ủng hộ. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển
cán bộ được đẩy mạnh hơn. Quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương
4 đã có tác động thúc đẩy đất nước vượt qua khó khăn, giữ vững ổn định chính
trị, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố niềm tin trong Đảng và nhân dân.
Đạt
được kết quả nói trên là do Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI là chủ trương đúng
đắn và kịp thời, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn; đã được Bộ Chính trị, Ban Bí
thư và cấp ủy, tổ chức đảng các cấp tập trung chỉ đạo thực hiện với quyết tâm
chính trị cao, chặt chẽ, cán bộ, đảng viên đồng tình, thống nhất cao và thực
hiện nghiêm túc.
Tuy
nhiên, việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 chưa đạt kết quả như mong đợi.
Trong quá trình chuẩn bị kiểm điểm, nhiều cấp ủy, tổ chức đảng và tập thể lãnh
đạo cơ quan, đơn vị góp ý cho cấp trên (nhất là cho cá nhân), chất lượng còn
hạn chế. Một số đồng chí chưa nhìn nhận đúng mức khuyết điểm và trách nhiệm của
mình trước những hạn chế, khuyết điểm trong lĩnh vực được giao phụ trách. Nhìn
chung, khuyết điểm khá phổ biến là tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm.
Trên một số vấn đề, qua kiểm điểm của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp từ Trung
ương đến cơ sở vẫn chưa làm rõ thực chất, mức độ nghiêm trọng của tình hình,
xảy ra ở đâu, ai chịu trách nhiệm, như : tình trạng suy thoái tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống; tình trạng chạy chức, chạy tội, lợi ích nhóm,... Một số
quy định, quy chế để triển khai thực hiện Nghị quyết chậm được ban hành, một số
vụ việc phức tạp, gây bức xúc trong nhân dân chậm được xem xét, xử lý. Tình
trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên bước đầu được ngăn chặn, nhưng chưa bị đẩy lùi. Công tác
thông tin, tuyên truyền về thực hiện Nghị quyết có lúc, có nơi chưa đầy đủ, kịp
thời, chưa định hướng được dư luận.
Những
hạn chế, khuyết điểm nêu trên chủ yếu là do các vấn đề cấp bách về xây dựng
Đảng hiện nay là những vấn đề quan trọng, khó và đã kéo dài nhiều nhiệm kỳ,
chưa có những giải pháp đủ mạnh phù hợp để khắc phục, giải quyết.
Đánh giá chung, công tác xây dựng Đảng 5 năm qua đã đạt được
những kết quả quan trọng:
Công
tác xây dựng Đảng về chính trị trước tình hình mới tiếp tục được coi trọng.Kiên
định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới; chống giáo điều, bảo
thủ, trì trệ hoặc chủ quan, nóng vội. Coi trọng giữ vững bản chất giai cấp công
nhân và các nguyên tắc hoạt động của Đảng. Năng lực hoạch định đường lối, chính
sách có bước tiến bộ.
Chất
lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận có bước được nâng lên. Công tác tư
tưởng được coi trọng và tăng cường, góp phần tạo sự thống nhất trong Đảng, sự
đồng thuận trong xã hội. Tích cực đấu tranh với hoạt động "diễn biến hòa
bình" của các thế lực thù địch; chủ động phòng ngừa, đấu tranh phê phán,
ngăn chặn những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"
trong nội bộ. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận được đẩy mạnh
hơn. Trong nhiệm kỳ đã tiến hành tổng kết 20 năm thực hiện Hiến pháp năm 1992;
tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới và tổng kết 20
năm thực hiện Nghị quyết số 01-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa VII về công tác lý
luận,...
Coi
trọng rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân trong cán
bộ, đảng viên. Việc thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị về học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đạt kết quả bước đầu quan trọng.
Tổ
chức bộ máy các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính
trị - xã hội tiếp tục được sắp xếp, kiện toàn theo yêu cầu nhiệm vụ mới. Chức
năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của các tổ chức trong hệ thống chính trị
được phân định, điều chỉnh phù hợp hơn. Chỉ đạo việc thực hiện thí điểm một số
mô hình đổi mới về tổ chức bộ máy chính quyền địa phương. Chất lượng đội ngũ
cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị từng bước được nâng lên,
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Công
tác xây dựng, củng cố, kiện toàn tổ chức cơ sở đảng, việc phát triển và nâng
cao chất lượng đảng viên đã đượccác cấp ủy, tổ chức đảng tập trung chỉ đạo thực
hiện, nhất là đối với những tổ chức cơ sở đảng yếu kém, có nhiều khó khăn,
những địa bàn trọng yếu, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới; thu hẹp đáng kể
tình trạng chi bộ sinh hoạt ghép hoặc chưa có chi bộ ở các thôn, ấp, bản, làng.
Số đảng viên mới kết nạp là đoàn viên thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, nữ, trí
thức, học sinh, sinh viên, dân tộc thiểu số, tôn giáo, người lao động trong các
thành phần kinh tế và chủ doanh nghiệp tư nhân tăng hơn so với khóa trước. Tuổi
bình quân kết nạp Đảng trong nhiệm kỳ này trẻ hơn so với trước.
Nhiều
chủ trương, nguyên tắc, quan điểm, giải pháp lớn về công tác cán bộ được thể
chế, cụ thể hóa bằng quy chế, quy định, quy trình bảo đảm dân chủ, chặt chẽ
hơn. Thực hiện việc lấy phiếu tín nhiệm cán bộ, trọng tâm là đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý các cấp, được dư luận đồng tình, có tác dụng, hiệu quả. Công
tác đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng cán bộ về cơ bản đã thực
hiện theo quy hoạch. Tiến hành xây dựng quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh chủ chốt của Đảng, Nhà nước. Quy định và
thực hiện chế độ bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới đối với cán bộ lãnh đạo,
quản lý các cấp và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo chức danh có tác dụng tốt.
Việc thực hiện chính sách cán bộ trong hệ thống chính trị tiếp tục được quan
tâm.
Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được các cấp ủy, tổ chức đảng quan tâm chỉ đạo, tổ chức thực hiện và đạt nhiều kết quả, góp phần xây dựng, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo đảm an ninh chính trị.
Công
tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng được tăng cường, có hiệu lực, hiệu quả
hơn, góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng; tham mưu,
đề xuất, sửa đổi, bổ sung và ban hành mới các văn bản của Đảng đồng bộ, phù
hợp. Tiếp tục quan tâm củng cố, kiện toàn ủy ban kiểm tra, cơ quan ủy ban kiểm
tra và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra các cấp.
Đảng
và Nhà nước đã thể hiện quyết tâm chính trị trong công tác đấu tranh phòng,
chống tham nhũng, lãng phí. Nhận thức về đấu tranh phòng, chống tham nhũng,
lãng phí được nâng lên trong các cấp ủy, các ngành, các cấp, các tổ chức trong
hệ thống chính trị, trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và nhân dân.
Tiếp tục ban hành các quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;
tăng cường hoạt động của Ban Chỉ đạo và các đơn vị chuyên trách phòng, chống
tham nhũng, lãng phí. Nhiều vụ việc, vụ án tham nhũng đặc biệt nghiêm trọng,
phức tạp được phát hiện, điều tra, xử lý nghiêm minh, được dư luận đồng tình,
ủng hộ, tạo sức mạnh răn đe, phòng ngừa tham nhũng.
Công
tác dân vận được quan tâm và có bước đổi mới cùng với việc ban hành,thực hiện
nhiều chủ trương, chính sách phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, xoá
đói, giảm nghèo; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Áp dụng
nhiều hình thức vận động, tập hợp nhân dân thực hiện các chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước và tích cực tham gia xây dựng Đảng, xây dựng
Nhà nước trong sạch, vững mạnh;đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, các
hoạt động ngoại giao nhân dân và công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài.
Phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị tiếp tục được đổi mới. Đã ban
hành nhiều quy chế, quy định, quy trình công tác để thực hiện, bảo đảm giữ vững
vai trò lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy vai trò, tính chủ động, sáng tạo
và trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị, nhất là vai trò của
Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc. Việc đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các
cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương tới cơ sở có bước tiến bộ. Thực hiện
chế độ tập thể lãnh đạo đi đôi với phát huy tính chủ động, sáng tạo và trách
nhiệm của cá nhân, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu. Coi trọng việc phát
huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức đảng, đảng viên, cấp ủy viên hoạt động
trong các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội;
nói đi đôi với làm. Có những đổi mới trong việc ra nghị quyết, coi trọng việc
lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết việc
thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng. Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính
trong Đảng theo hướng giảm bớt thủ tục, giấy tờ, hội họp.
Với
những kết quả quan trọng nêu trên, Đảng ta giữ vững được bản lĩnh chính trị,
bản chất cách mạng và khoa học, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, kiên định đường lối đổi mới. Đảng ta xứng đáng là lực lượng
lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Đạt
được những kết quả đó là do Đảng ta luôn xác định nhiệm vụ xây dựng Đảng là
then chốt; đa số cán bộ, đảng viên có quan điểm, lập trường tư tưởng vững vàng,
giữ vững phẩm chất đạo đức, vai trò tiên phong, gương mẫu trong thực hiện chức
trách, nhiệm vụ; thu hút sự tham gia của hệ thống chính trị và nhân dân vào việc
chỉnh đốn, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Tuy nhiên, công tác xây dựng Đảng trong 5 năm qua còn nhiều hạn
chế, khuyết điểm:
Dự
báo, hoạch định, lãnh đạo tổ chức thực hiện chính sách của Đảng, Nhà nước còn
nhiều hạn chế.Việc thể chế hóa, xây dựng chương trình hành động và tổ chức thực
hiện các nghị quyết, chỉ thị, quy định, kết luận của Đảng chưa kịp thời, đồng
bộ, cụ thể và hiệu quả chưa cao. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của không
ít tổ chức đảng còn thấp, thậm chí có nơi mất sức chiến đấu; công tác quản lý,
giáo dục, rèn luyện đảng viên ở một số nơi chưa được quan tâm thường xuyên,
sinh hoạt đảng chất lượng chưa cao, tự phê bình và phê bình yếu.
Chất
lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận chưa cao. Chậm khắc phục có hiệu
quả những hạn chế của công tác tư tưởng như thiếu sắc bén, chưa thuyết phục.
Đấu tranh chống âm mưu, hoạt động "diễn biến hòa bình" của các thế
lực thù địch, phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"
còn bị động, hiệu quả chưa cao. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận
chưa đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới. Hệ thống, chương trình đào tạo, bồi
dưỡng lý luận chính trị còn nhiều bất hợp lý. Phương pháp giảng dạy, học tập lý
luận chính trị còn lạc hậu.
Việctriển
khai thực hiện nội dung các nghị quyết, chỉ thị, chủ trương, chính sách của
Đảng về rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, nâng cao năng lực, trình độ của
cán bộ, đảng viên chưa thực sự tích cực, đồng bộ, thường xuyên, một số nơi thực
hiện chưa nghiêm túc. Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
chưa đều, chưa đi vào chiều sâu ở nhiều ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị; một
số nơi thực hiện còn mang tính hình thức.
Tổ
chức bộ máy của Đảng và toàn hệ thống chính trị còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc;
chức năng, nhiệm vụ ở một số tổ chức còn chồng chéo; hiệu lực, hiệu quả hoạt
động của nhiều tổ chức trong hệ thống chính trị chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm
vụ; thẩm quyền, trách nhiệm của cán bộ, công chức, nhất là trách nhiệm của
người đứng đầu chưa rõ. Mô hình tổ chức đảng ở một số lĩnh vực chưa thật hợp
lý, nhất là ở các tập đoàn, tổng công ty,...
Việc
kiện toàn tổ chức, bộ máy các cơ quan, tổ chức nhà nước, các tổ chức chính trị
- xã hội gắn với tinh giản biên chế, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức kết quả còn thấp. Số lượng cán bộ, công chức không những không giảm mà lại
tăng, nhất là ở các đơn vị sự nghiệp công lập và công chức, cán bộ chuyên
trách, không chuyên trách xã, phường, thị trấn. Việc đổi mới công tác cán bộ
chưa có đột phá lớn. Đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu nhất qua nhiều nhiệm kỳ
nhưng chưa có những tiêu chí cụ thể và giải pháp khoa học để khắc phục. Tình
trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy bằng cấp,... chưa được ngăn chặn,
đẩy lùi. Đội ngũ cán bộ cấp Trung ương, cấp chiến lược chưa được tập trung xây
dựng. Chưa quan tâm đúng mức đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ tham mưu, tư vấn
cấp chiến lược. Công tác quy hoạch ở một số nơi còn khép kín, chưa bảo đảm sự
liên thông, gắn kết. Tỉ lệ cán bộ lãnh đạo và cấp ủy là người dân tộc thiểu số,
cán bộ nữ, cán bộ trẻ, việc luân chuyển bố trí một số chức danh cán bộ lãnh đạo
không là người địa phương thực hiện chưa đạt yêu cầu. Những hạn chế, khuyết
điểm trong công tác cán bộ là một trong những điểm yếu, cản trở sự phát triển.
Công
tác bảo vệ chính trị nội bộ có mặtcòn hạn chế. Chưa nắm và giải quyết tốt vấn
đề chính trị hiện nay, trong khi những biểu hiện"tự diễn biến",
"tự chuyển hóa"có xu hướng diễn biến phức tạp trong Đảng, trong hệ
thống chính trị và trong xã hội. Không ít cán bộ, đảng viên có những biểu hiện
dao động, mất phương hướng, hoài nghi về vai trò lãnh đạo của Đảng, về mục
tiêu, lý tưởng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đã xuất hiện
những việc làm và phát ngôn vô nguyên tắc, trái với Cương lĩnh, đường lối, Điều
lệ Đảng ở một số cán bộ, đảng viên.
Chất
lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và xử lý tổ chức đảng và đảng viên
vi phạm chưa cao, chưa đủ sức góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí,
tiêu cực trong nội bộ Đảng. Nhiều khuyết điểm, sai phạm của tổ chức đảng, đảng
viên chậm được phát hiện, kiểm tra, xử lý, hoặc xử lý kéo dài, nên kỷ cương, kỷ
luật ở một số nơi chưa nghiêm; chưa phát huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm của
các tổ chức trong hệ thống chính trị và của nhân dân trong công tác kiểm tra,
giám sát.
Công
tác dân vận còn nhiều mặt hạn chế.Việc xây dựng, nhất là triển khai thực hiện
các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác dân vận còn chưa kịp thời, kém
hiệu quả; chưa đánh giá và dự báo chính xác những diễn biến, thay đổi cơ cấu xã
hội, thành phần dân cư, tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân,... để có
chủ trương, chính sách và biện pháp phù hợp.
Nhiều
cấp ủy đảng, chính quyền các cấp chưa thực hiện tốt vai trò lãnh đạo, chỉ đạo,
quản lý, thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; chưa phát huy
được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của nhân dân trong phòng,
chống tham nhũng, lãng phí. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt
mục tiêu, yêu cầu. Tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu
hiện ngày càng tinh vi, phức tạp, xảy ra trên nhiều lĩnh vực, ở nhiều cấp,
nhiều ngành, làm cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội, gây bức xúc trong dư
luận, là thách thức nghiêm trọng đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực
quản lý của Nhà nước, đe doạ sự tồn vong của chế độ.
Đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức chính trị - xã hội còn chậm, nhất là việc cụ thể hóa phương thức lãnh đạo
của Đảng đã được xác định trong Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011); phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước có những nội dung còn lúng túng. Chưa
xác định rõ nội dung và phương thức cầm quyền. Chưa thật sự phát huy vai trò
của các tổ chức đảng, đảng viên, cấp ủy viên hoạt động trong các cơ quan nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; một bộ phận cán bộ,
đảng viên chưa gương mẫu trước nhân dân. Chưa khắc phục được tình trạng ban
hành nhiều nghị quyết; có một số nội dung thiếu tính khả thi, chưa tính kỹ
nguồn lực và điều kiện thực hiện. Chưa thật tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức
thực hiện, kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết; một
số nghị quyết chậm đi vào cuộc sống. Còn có biểu hiện quan liêu, cửa quyền,
chưa thực sự sâu sát thực tế, cơ sở. Tình trạng nói không đi đôi với làm, nói
nhiều làm ít chậm được khắc phục.
Những
hạn chế, khuyết điểm trên đây làm cho Đảng ta chưa thật sự trong sạch, vững
mạnh, làm giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà
nước và chế độ.
Nguyên
nhân của những hạn chế, khuyết điểm là do xây dựng Đảng cầm quyền trong điều
kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế là vấn đề mới và
khó,phải vừa làm, vừa tìm tòi, tổng kết rút kinh nghiệm để đổi mới, hoàn thiện.
Chậm đổi mới tư duy về công tác xây dựng Đảng trong điều kiện mới. Nhận thức
chưa đầy đủ và sâu sắc, có mặt chưa rõ, chưa thống nhất một số vấn đề quan
trọng ở tầm quan điểm, chủ trương. Chưa thật sự phát huy dân chủ trong Đảng, phát
huy vai trò giám sát, tham gia của nhân dân vào công tác xây dựng Đảng. Việc tổ
chức thực hiện nghị quyết, chủ trương về xây dựng Đảng chưa nghiêm, còn thiếu
các biện pháp cụ thể, khả thi. Nhiều cấp ủy đảng và bí thư cấp ủy chưa đầu tư
đúng mức thời gian, công sức cho công tác xây dựng Đảng. Lãnh đạo, chỉ đạo,
kiện toàn tổ chức, đổi mới công tác cán bộ thiếu đồng bộ, kiên quyết, hiệu quả
thấp.
2- Phương hướng, nhiệm vụ
Đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng Đảng, trọng tâm là kiên
quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI. Các cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo cơ
quan, đơn vị và cá nhân cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp từ Trung ương đến cơ
sở nghiêm túc, tự giác và có kế hoạch, biện pháp phù hợp để khắc phục, sửa chữa
những yếu kém, khuyết điểm.
Xây dựng Đảng về chính trị
Kiên
định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát
triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới. Nâng cao bản lĩnh chính trị, trình
độ trí tuệ, tính chiến đấu của toàn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước
hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp; không dao động trong bất cứ
tình huống nào. Giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng, vai trò tiên
phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên.
Kiên
định những vấn đề có tính nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng. Nâng cao
năng lực cầm quyền của Đảng và bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng có hiệu lực, hiệu
quả; bản lĩnh chính trị của Đảng, của các tổ chức đảng, của cán bộ, đảng viên.
Nâng
cao năng lực hoạch định đường lối, chính sách phù hợp với quy luật khách quan
và đặc điểm của Việt
Hoàn thiện cơ chế, quy chế và tổ chức thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả việc tự phê bình, phê bình, chất vấn trong các kỳ họp của Ban Chấp hành Trung ương, cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy các cấp. Xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả cơ chế phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng.
Đổi mới công tác tư tưởng, lý luận
Tiếp
tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính thuyết
phục, hiệu quả của công tác tư tưởng; đẩy mạnh tuyên truyền, học tập chủ nghĩa
Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước phù hợp với từng đối tượng theo hướng cụ thể, thiết
thực, hiệu quả.
Đổi
mới công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho
cán bộ, đảng viên. Đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện "tự
diễn biến", "tự chuyển hóa". Tăng cường đấu tranh làm thất bại
mọi âm mưu, hoạt động "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch;
chủ động ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù
địch.
Tiếp
tục đổi mới tư duy lý luận, làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn, hoàn thiện hệ
thống các quan điểm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam, đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cung cấp
các luận cứ khoa học, lý luận cho việc hoạch định, phát triển đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đổi mới mô hình tổ chức,
phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của cơ quan
nghiên cứu lý luận của Đảng; đầu tư thích đáng cho việc xây dựng, phát triển
đội ngũ cán bộ lý luận, nhất là những chuyên gia đầu ngành; nâng cao chất lượng
tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, đáp ứng yêu cầu mới.
Đổi
mới mạnh mẽ công tác giáo dục lý luận chính trị, học tập nghị quyết của Đảng.
Thực hiện nền nếp việc bồi dưỡng lý luận, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ,
đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, đặc biệt là cấp Trung
ương. Tiếp tục đổi mới hệ thống chương trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị
theo hướng nâng cao chất lượng, chú trọng tính hiệu quả và phù hợp với từng đối
tượng.
Tăng cường rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ
nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng
Đưa
việc thường xuyên giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức thành một nội dung quan
trọng trong mục tiêu xây dựng Đảng: "Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh
về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức".
Tiếp
tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh; coi đó là công việc thường xuyên của các tổ chức đảng, các cấp chính
quyền, các tổ chức chính trị - xã hội, địa phương, đơn vị, gắn với chống suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện "tự diễn
biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ. Kiên quyết đấu tranh chống
quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chủ nghĩa cá nhân, lối sống cơ hội, thực dụng,
bè phái, "lợi ích nhóm", nói không đi đôi với làm.
Xây
dựng và thực hiện tốt các quy định để phát huy vai trò gương mẫu trong rèn
luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách, tác phong, lề lối công tác của
cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo các cấp, người đứng đầu các cơ quan,
đơn vị. Thực hiện nghiêm cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát của tổ chức đảng,
giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã
hội và của nhân dân về phẩm chất, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống
chính trị
Tiếp
tục đổi mới bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, nâng cao
hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành. Đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ
máy phải gắn với hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ, công chức; xác định rõ quan hệ giữa tập thể lãnh đạo với cá nhân phụ
trách; quyền hạn đi đôi với trách nhiệm và đề cao trách nhiệm của người đứng
đầu. Hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế kiểm soát quyền lực, ngăn ngừa sự
lạm quyền, vi phạm kỷ luật, kỷ cương. Nghiên cứu thực hiện thí điểm hợp nhất
một số cơ quan Đảng và Nhà nước tương đồng về chức năng, nhiệm vụ.
Thực
hiện chủ trương quản lý biên chế thống nhất trong toàn bộ hệ thống chính trị.
Tinh giản tổ chức, bộ máy gắn với tiếp tục phân định rõ chức năng, nhiệm vụ,
phương thức hoạt động của các tổ chức; thực hiện kiêm nhiệm một số chức danh và
tinh giản biên chế trong toàn hệ thống chính trị. Cơ bản thực hiện mô hình bí
thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch Hội đồng nhân dân các cấp. Sớm tổng kết mô
hình bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, cấp huyện ở
những nơi có đủ điều kiện. Điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ Hội đồng nhân dân, Ủy
ban nhân dân các cấp phù hợp với tình hình thực tiễn và yêu cầu, nhiệm vụ mới.
Trên cơ sở đó, tinh giản số cán bộ được hưởng lương và phụ cấp ở cơ sở.
Kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của
các tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đảng viên
Tập
trung củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
đảng, đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp, tạo chuyển biến về chất lượng
hoạt động của các loại hình tổ chức cơ sở đảng, nhất là tổ chức đảng trong các
cơ quan, đơn vị sự nghiệp và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Kiện
toàn tổ chức, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng ở cơ sở. Xây dựng đội ngũ
đảng viên thật sự tiên phong, gương mẫu, gần dân, sát dân, có trách nhiệm cao
trong công việc, có phẩm chất đạo đức cách mạng, ý thức tổ chức kỷ luật và năng
lực hoàn thành nhiệm vụ, vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức, phấn đấu cho
mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Tiếp tục đổi mới, tăng cường công tác quản lý,
phát triển, sàng lọc đảng viên, bảo đảm chất lượng; kiên quyết đưa ra khỏi Đảng
những người vi phạm nghiêm trọng Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước. Tổng kết
việc thực hiện Quy định của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về đảng viên làm kinh
tế tư nhân và việc thí điểm kết nạp những người là chủ doanh nghiệp tư nhân đủ
tiêu chuẩn vào Đảng.
Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, coi trọng công tác bảo vệ chính
trị nội bộ
Tiếp
tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Thể chế hóa, cụ thể hóa các nguyên tắc về: quan hệ giữa đường
lối chính trị và đường lối cán bộ; quan điểm giai cấp và chính sách đại đoàn
kết rộng rãi trong công tác cán bộ; quan hệ giữa tiêu chuẩn và cơ cấu; giữa đức
và tài; giữa kế thừa và phát triển; giữa sự quản lý thống nhất của Đảng với
phát huy đầy đủ trách nhiệm của các cơ quan trong hệ thống chính trị; giữa thẩm
quyền, trách nhiệm cá nhân và tập thể; giữa phân cấp, phân quyền và kiểm tra,
giám sát, kiểm soát để thực hiện thống nhất, đồng bộ trong Đảng và hệ thống
chính trị. Quán triệt và nghiêm túc thực hiện quan điểm Đảng thống nhất lãnh
đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy quyền và
trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính
trị về công tác cán bộ. Tiếp tục ban hành và thực hiện các quy định, quy chế,
cơ chế trong công tác cán bộ bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ và chặt chẽ giữa
các khâu, liên thông giữa các cấp; trong đó có quy chế về việc đánh giá đúng
đắn, khách quan đối với cán bộ, để có cơ sở sử dụng, bố trí cán bộ, ngăn chặn,
đẩy lùi tình trạng chạy chức, chạy tuổi, chạy bằng cấp,... Tăng tỉ lệ cán bộ
lãnh đạo, cấp ủy là người dân tộc thiểu số, cán bộ nữ, cán bộ trẻ. Đổi mới bầu
cử trong Đảng, phương thức tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ,... để lựa chọn những
người có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, năng động, dám
nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm giữ các vị trí lãnh đạo, đặc biệt là người
đứng đầu. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến
lược, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ. Có cơ chế, chính sách phát
hiện, thu hút, sử dụng nhân tài.
Tăng
cường trách nhiệm của cấp ủy, nhất là cấp ủy cơ sở trong công tác bảo vệ chính
trị nội bộ. Xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm của công tác bảo vệ chính trị nội bộ
trong giai đoạn hiện nay là bảo vệ Cương lĩnh, Điều lệ Đảng; bảo vệ nguyên tắc
tổ chức và hoạt động của Đảng; bảo vệ Hiến pháp và pháp luật; bảo vệ cán bộ,
đảng viên về mặt chính trị. Gắn công tác bảo vệ chính trị nội bộ với công tác
xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn những hiện tượng cục
bộ, bè phái, "lợi ích nhóm", gây mất đoàn kết trong Đảng. Xử lý
nghiêm những cán bộ, đảng viên phát ngôn, tuyên truyền, tán phát tài liệu trái
Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, Hiến pháp và
pháp luật của Nhà nước. Đấu tranh có hiệu quả với âm mưu, hoạt động "diễn
biến hòa bình" của các thế lực thù địch.
Đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám
sát, kỷ luật đảng
Nâng
cao nhận thức của các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, trước hết là
người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng về công tác kiểm tra, giám sát, để lãnh
đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm trong công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Tập trung chỉ đạo xây
dựng, hoàn thiện các quy định của Đảng để nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu
quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng.
Đổi
mới, tăng cường, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của
các cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra các cấp và chi bộ; xử lý kịp thời,
nghiêm minh những tổ chức đảng, đảng viên vi phạm Cương lĩnh chính trị, Điều lệ
Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, những hành vi dung túng, bao che cho khuyết điểm, vi phạm của tổ chức
đảng và đảng viên, công khai kết quả xử lý. Chú trọng kiểm tra, giám sát người
đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức
chính trị - xã hội trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn được
giao và việc giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, không để người thân trong gia
đình lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi. Tăng cường kiểm tra, giám sát đối
với các ban cán sự đảng, đảng đoàn, các tổ chức đảng ở các cơ quan nhà nước,
các đơn vị kinh tế và các lĩnh vực dễ xảy ra sai phạm. Tiếp tục hoàn thiện cơ
chế, phương pháp, quy trình kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật và giải quyết
khiếu nại trong Đảng; hoàn thiện cơ chế và nâng cao chất lượng phối hợp thực
hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng giữa ủy ban kiểm tra
với các tổ chức đảng và cơ quan liên quan.
Nghiên
cứu việc tăng thẩm quyền kiểm tra, thi hành kỷ luật đảng cho ủy ban kiểm tra
các cấp. Kiện toàn ủy ban kiểm tra, tổ chức bộ máy và cán bộ cơ quan ủy ban
kiểm tra tương xứng, ngang tầm với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
Đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kiểm tra các cấp. Có
chế độ, chính sách hợp lý đối với cán bộ kiểm tra.
Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận, tăng cường
quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân
Củng
cố vững chắc niềm tin của nhân dân đối với Đảng, tăng cường khối đại đoàn kết
toàn dân tộc và mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân; tập hợp, vận động
nhân dân thực hiện tốt các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà
nước; phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân, tạo thành phong trào cách mạng
rộng lớn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng về công tác dân vận trong điều kiện phát
triển mạnh mẽ kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc
tế. Đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thật sự tin dân, trọng dân, gần dân, hiểu
dân, học dân, dựa vào dân, có trách nhiệm với dân. Giải quyết kịp thời, có hiệu
quả những bức xúc, những kiến nghị chính đáng của nhân dân và khiếu nại, tố cáo
của công dân.
Kịp
thời thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật phù
hợp với thực tiễn và đáp ứng lợi ích, nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Tiếp
tục thể chế hóa, cụ thể hóa mối quan hệ "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
nhân dân làm chủ", nhất là nội dung nhân dân làm chủ và phương châm
"Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát".
Tăng
cường và đổi mới công tác dân vận của các cơ quan nhà nước. Thực hiện tốt Quy
chế công tác dân vận của hệ thống chính trị. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác dân vận.
Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí
Xác
định đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí là nhiệm vụ khó khăn, phức
tạp, lâu dài; là trách nhiệm của các cấp ủy đảng, trước hết là người đứng đầu
cấp ủy, chính quyền, và của toàn bộ hệ thống chính trị. Kiên quyết phòng, chống
tham nhũng, lãng phí với yêu cầu chủ động phòng ngừa, không để xảy ra tham
nhũng, lãng phí; xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng, lãng phí, bao che, dung
túng, tiếp tay cho các hành vi tham nhũng, lãng phí, can thiệp, ngăn cản việc
chống tham nhũng, lãng phí.
Đẩy
mạnh việc nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước để bảo đảm công tác phòng, chống tham nhũng, lãng
phí có hiệu lực, hiệu quả, nhất là trong các lĩnh vực có nguy cơ tham nhũng cao
như: quản lý và sử dụng đất đai, khai thác tài nguyên, khoáng sản; thu, chi ngân
sách, mua sắm công, tài chính, ngân hàng, thực hiện các dự án đầu tư xây dựng
cơ bản; công tác cán bộ; quản lý doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp cổ phần có
vốn nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; giáo dục, đào tạo và y
tế. Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức,
ý thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành, của cán bộ, đảng viên, công chức,
viên chức và nhân dân về công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tạo sự
thống nhất, tự giác, quyết tâm cao trong hành động. Kiên quyết xử lý và kịp
thời thay thế những cán bộ lãnh đạo, quản lý tham nhũng, lãng phí; xử lý nghiêm
minh trách nhiệm của người đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng, lãng phí trong tổ
chức, cơ quan, đơn vị, địa phương mình trực tiếp quản lý, các cán bộ, đảng
viên, công chức vi phạm về kê khai và minh bạch tài sản, thu nhập; kiên quyết
thu hồi tiền, tài sản bị tham nhũng. Đồng thời, đẩy mạnh cải cách chính sách
tiền lương, thu nhập, chính sách nhà ở bảo đảm cuộc sống cho cán bộ, đảng viên,
công chức để góp phần phòng, chống tham nhũng. Kiên quyết, kiên trì xây dựng cơ
chế phòng ngừa để không thể tham nhũng; cơ chế răn đe, trừng trị để không dám
tham nhũng.
Tiếp
tục kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan có chức năng đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, lãng phí. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm
toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án để nâng cao hiệu lực, hiệu quả
công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Xây dựng cơ chế phòng ngừa, ngăn
chặn quan hệ "lợi ích nhóm"; chống đặc quyền, đặc lợi, khắc phục
"tư duy nhiệm kỳ"; đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp.
Phát huy vai trò của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân
dân, các phương tiện thông tin đại chúng và của nhân dân trong đấu tranh phòng,
chống tham nhũng, lãng phí.
Đổi mới phương thức lãnh đạo, phương thức cầm quyền của Đảng
Tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về đảng cầm quyền, xác định rõ mục đích cầm quyền, phương thức cầm quyền, nội dung cầm quyền, điều kiện cầm quyền; vấn đề phát huy dân chủ trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền; các nguy cơ cần lưu ý phòng ngừa đối với đảng cầm quyền.
Nâng
cao hiệu quả thực hiện và tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với hệ thống chính trị, đặc biệt là với Nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà
nước bằng các chủ trương, chính sách lớn, lãnh đạo thể chế hóa các quan điểm,
đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật, lãnh đạo xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức đủ phẩm chất và năng lực, lãnh đạo tổ chức thực hiện
có hiệu quả các chủ trương, chính sách và hệ thống pháp luật; chú trọng lãnh
đạo đổi mới, nâng cao chất lượng lập pháp, cải cách hành chính và cải cách tư
pháp; các tổ chức của Đảng và đảng viên phải gương mẫu tuân thủ Hiến pháp và
pháp luật. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và
các tổ chức chính trị - xã hội, tôn trọng nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong
tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt
Tiếp
tục cụ thể hóa phương thức lãnh đạo của Đảng đã được xác định trong Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển
năm 2011) ở tất cả các cấp bằng những quy chế, quy định, quy trình cụ thể. Quy
định rõ hơn Đảng phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách
nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình; về quyền hạn, trách nhiệm
của người đứng đầu và mối quan hệ giữa tập thể cấp ủy, tổ chức đảng với người
đứng đầu, bảo đảm thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá
nhân phụ trách, đi đôi với phát huy vai trò, trách nhiệm, tính chủ động của
người đứng đầu và cơ chế xử lý đối với người đứng đầu khi vi phạm. Quy định rõ
hơn thẩm quyền và trách nhiệm của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban
Bí thư, cấp ủy và ban thường vụ cấp ủy các cấp. Đẩy mạnh việc phân cấp, phân
quyền; có cơ chế để các địa phương phát huy quyền chủ động, sáng tạo, gắn với
đề cao trách nhiệm, đồng thời bảo đảm sự lãnh đạo, quản lý thống nhất của Trung
ương.
Coi
trọng xây dựng văn hóa trong các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, trong hệ thống
chính trị mà nội dung quan trọng là tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo
trong hệ thống tổ chức của Đảng; đổi mới phương pháp, phong cách, lề lối làm
việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương tới cơ sở, xây dựng phong
cách làm việc khoa học, tập thể, dân chủ, gần dân, trọng dân, vì dân, bám sát
thực tiễn, nói đi đôi với làm.
Tiếp
tục đổi mới, nâng cao chất lượng việc xây dựng, ban hành nghị quyết của Đảng,
luật pháp, chính sách của Nhà nước. Nghị quyết phải thiết thực, ngắn gọn, khả
thi; phải tính đến cân đối các nguồn lực và điều kiện bảo đảm triển khai thực
hiện có hiệu quả; phân công rõ trách nhiệm tổ chức, cá nhân, thời hạn hoàn
thành các nhiệm vụ, giải pháp được ghi trong nghị quyết. Tập trung lãnh đạo,
chỉ đạo kiên quyết, dứt điểm việc cụ thể hóa, thể chế hóa, tổ chức thực hiện
nghị quyết; thường xuyên kiểm tra, đôn đốc; đổi mới cách thức quán triệt, sơ
kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng, bảo đảm tính hiệu
quả. Đẩy mạnh cải cách hành chính trong Đảng, khắc phục những thủ tục rườm rà,
bất hợp lý, giảm bớt giấy tờ, giảm mạnh hội họp.
SÁU NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM TRONG NHIỆM KỲ ĐẠI HỘI XII
Trong nhiệm kỳ Đại hội XII, cần đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công
cuộc đổi mới, phát huy mọi nguồn lực và động lực để phát triển đất nước nhanh,
bền vững; đặc biệt chú trọng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có kết quả
sáu nhiệm vụ trọng tâm sau:
1- Tăng cường xây dựng,
chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong
nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến
lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
2- Xây dựng tổ chức bộ
máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy
mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.
3- Tập trung thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động. Thực hiện có hiệu quả ba đột phá chiến lược (hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ), cơ cấu lại tổng thể và đồng bộ nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chú trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới. Chú trọng giải quyết tốt vấn đề cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, cơ cấu lại ngân sách nhà nước, xử lý nợ xấu và bảo đảm an toàn nợ công.
4- Bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Mở rộng và đưa vào chiều sâu
các quan hệ đối ngoại; tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện hiệu
quả hội nhập quốc tế trong điều kiện mới, tiếp tục nâng cao vị thế và uy tín
của đất nước trên trường quốc tế.
5- Thu hút, phát huy mạnh
mẽ mọi nguồn lực và sức sáng tạo của nhân dân; chăm lo nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc.
6- Phát huy nhân tố con
người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về
đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng môi trường
văn hóa lành mạnh. Giải quyết tốt những vấn đề bức thiết; tăng cường quản lý
phát triển xã hội; bảo đảm an sinh, phúc lợi xã hội.
*
* *
Trong
nhiệm kỳ qua, đất nước ta đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, đạt được
những thành quả quan trọng. Tình hình thế giới đang thay đổi nhanh chóng, tạo
ra cho nước ta thời cơ lớn, đồng thời cũng đặt ra nhiều khó khăn, thách thức.
Đại hội lần thứ XII của Đảng khẳng định quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân và
toàn quân ta tận dụng thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước,
phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ công cuộc đổi
mới, phát triển đất nước nhanh và bền vững, thực hiện thắng lợi mục tiêu cao cả
"dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh", vững bước đi lên
chủ nghĩa xã hội.
BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG