|
Đàn đá Tuy An |
Núi Một, xã An nghiệp là một ngọn núi hẹp, chạy dài theo trục Bắc Nam, lọt giữa một thung lũng khá rộng. Nơi phát hiện đàn đá cách thị trấn Chí Thạnh, trung tâm của huyện lỵ Tuy An, 5km theo đường chim bay, cách Trung Hạp (nơi phát hiện bộ đàn đá Khánh Sơn) 144 km theo đường thẳng. Tại thời điểm này, trên địa bàn xã chỉ có người Kinh. Nhân dân ở đây chủ yếu sống bằng nghề nông. Tìm hiểu vùng đất An Nghiệp, bạn sẽ khám phá ra nhiều yếu tố bất ngờ. Nơi đây là quê hương của nhà thơ tài hoa Nguyễn Mỹ và nhạc sĩ nổi tiếng Nhật Lai. Về An Nghiệp, các cụ già đang sinh sống nơi này sẽ cho chúng ta biết: Núi Một là ngọn núi rất linh thiêng, trước đây không ai dám đến núi Một một mình. Sau khi có khoán 10, Hợp tác xã nông nghiệp Bắc An Nghiệp mạnh dạn động viên xã viên tới núi Một khai hoang, trồng cây hoa màu. Tháng 6-1992, anh Huỳnh Ngọc Hồng, xã viên hợp tác xã Bắc An nghiệp canh tác ở vùng này. Trong một lần đi trồng sắn, lúc mỏi mệt, muốn tìm một vật kê ngồi nghỉ, anh nhìn thấy một đầu hòn đá nhô lên, liền lấy rựa kéo lên. Khi anh dùng rựa gõ vào hòn đá cho đất tơi ra thì nghe có tiếng kêu vang khác lạ. Anh Hồng nghĩ tới đàn đá, vì có nghe loáng thoáng đến nhạc cụ này. Anh cuốc tìm xung quanh dưới độ sâu chừng 30 cm thì thấy một thanh đá nữa. Và một năm sau, anh Hùng Ngọc Hồng tìm thấy thêm sáu thanh ở vùng này.
Bộ đàn đá Tuy An do anh Huỳnh Ngọc Hồng tìm thấy: gồm tám thanh có độ dài từ 30 cm đến 59 cm ( trong đó có sáu thanh có độ dài từ 40 cm trở lên). Về kích thước các thanh của đàn đá có đầu rộng (đầu lớn) từ 10,5cm đến 26,6 cm, đầu hẹp (đầu nhỏ) từ 5cm đến 14 cm, dày từ 5cm đến 10 cm, mỏng từ 3cm đến 65cm. Về khối lượng các thanh của đàn đá nặng từ 2,3kg đến 14kg.
So sánh với những bộ đàn đá đã biết từ trước đến nay, bộ đàn đá Tuy An về cơ bản thuộc cỡ trung bình. Hình dáng của tám thanh trong bộ đàn đá Tuy An rất đa dạng, tương ứng với các hình chữ nhật (dạng phiến), hình thang, tình tam giác.
Khi quan sát tám thanh đàn đá, chúng ta thấy ở đầu gõ có thanh như một chiếc nêm, có thanh dáng thanh thoát thon dài, được ghè cả hai rìa trên và hai rìa dưới. Tổ hợp các thanh đàn đá Tuy An đã hình thành một thanh âm ngũ cung tương đối hoàn chỉnh. Một trong những đặc điểm nổi bật của thang âm đàn đá Tuy An là gói trọn trong tầm một khoảng (8+1), tầm này thích hợp với tầm cữ của một giọng hát thông thường. Tầm này cũng trùng hợp với tầm cữ thang âm điệu thức của các bài dân ca các tỉnh Trung Trung Bộ và Tây Nguyên.
Đến Phú Yên hôm nay, bạn sẽ được nghe giới thiệu về đàn đá và tận mắt xem nghệ nhân biểu diễn đàn đá. Âm thanh của đàn đá sẽ đưa bạn về với những làn điệu dân ca truyền thống của đồng bào Tây Nguyên, Trung Trung Bộ và Nam Bộ. Những làn điệu dân ca quen thuộc, rất đời thường như cuộc sống chân chất, mộc mạc, giản dị hiền lành của bà con vùng đất này.
Khi nghiên cứu về đàn đá Tuy An, các kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học khẳng định:
Đàn đá Tuy An là sản phẩm do bàn tay con người chế tác và có niên đại khoảng giữa thế kỷ I TCN. Như vậy, đàn đá Tuy An nằm trong phạm vi niên đại cua văn hóa Sa Huỳnh. Cho đến thời điểm này, đàn đá Tuy An là bộ đàn đá hoàn chỉnh nhất trong tất cả các bộ đàn đá được phát hiện ở Việt Nam, kể cả bộ đàn đá đang lưu giữ tại Bảo tàng “Con người” ở Pari. Với những đặc điểm và tính chất đã được các nhà khoa học khẳng định, đàn đá Tuy An góp phần đánh dấu sự trưởng thành từ rất sớm của nền văn hóa cổ Sa Huỳnh trên đất Phú Yên.
Địa điểm phát hiện Kèn Đá (Tù và)
Thôn Phú Cần, xã An Thọ, huyện Tuy An
Xã An Thọ nằm về phía Tây Bắc thành phố Tuy Hòa. Nếu lấy thành phố Tuy Hòa làm trung tâm, từ thành phố Tuy Hòa đến An Thọ khoảng 15 km theo đường chim bay. Từ xã An Thọ đến xã An Nghiệp (nơi đã phát hiện bộ đàn đá năm 1992) cách nhau khoảng 15 km theo hướng chim bay; từ Thành Hồ (kiến trúc Chăm ở Hòa Định Đông) đến An Thọ khoảng 20 km theo đường chim bay. Ở An Thọ có suối Bầu Chai. Con suối này chỉ hoạt động về mùa mưa. Nhìn tổng thể, An Thọ là vùng bán sơn địa. Năm 1995, nhân dân thôn Phú Cần, trong khi đào móng xây dựng chùa đã phát hiện ra kèn đá (tù và)
|
Bộ kèn đá báu vật quốc gia |
Sau khi nghiên cứu, các nhà khoa học, các kỹ sư địa chất đã đưa ra kết luận: cư dân ở Tuy An trước đây đã sử dụng nguyên liệu đá bazan, khai thác tại chỗ nên chiếc kèn đá, không có sự tác động của thần linh hay tự nhiên. Và rất có thể chủ nhân kèn đá cũng là chủ nhân của đàn đá Tuy An.
Về chi tiết, chiếc kèn đá có những đặc điểm:
Về hình dáng, khi đặt ngồi, trông giống như một con cóc lớn.
Trọng lượng: 75 kg.
Kích thước: đáy nằm 40cm, cao 35cm, chiều cong của lưng 55cm.
Lỗ thổi rộng 2,5cm. Từ lỗ thổi đến lỗ thoát hơi (có chiều hơi cong) dài 29,6cm có một lỗ xoáy sâu vào trong là 11,7cm, miệng lỗ rộng 3,3cm.
Dấu vết ghè đẽo: kèn đá có những nhát ghè nhỏ ở phần lỗ thổi. Khi thổi ở dấu vết ghè đẽo này thì việc thổi kèn đá tiện lợi hơn. Ở phần đế, có những nhát ghè lớn, tạo cho phần đế có một mặt phẳng, khi thổi không bị rung.
Cố tiến sĩ Quang Văn Cậy – Viện Bảo tàng Lịch sử nhận định: “Chiếc tù và bằng đá ở An Thọ có thể đồng đại với bộ đàn đá Tuy An. Trong tình trạng hiện nay, chúng tôi tạm thời đưa ra một niên đại rất tương đối cho tù và Bằng đá ở An Thọ là ở khoảng nửa sau thiên niên kỷ I TCN, cho tới thế kỷ VI, VII sau CN”.
Địa điểm phát hiện Kèn Đá (Tù và)
Thôn Mỹ Phú, xã An Hiệp, huyện Tuy An
Chùa Thiền Sơn tọa lạc ở dưới đèo Quán Cau. Từ thành phố Tuy Hòa đi trên quốc lộ 1A khoảng 20 km về phía bắc, ngay bên cạnh quốc lộ 1A về phía tay trái là bạn đã đến được với chùa Thiền Sơn.
Từ cổng chùa đi vào chốn cửa thiền, bạn sẽ chiêm nghiệm thêm nhiều điều thú vị. Các mẹ, các chị tay lần tràng hạt đang tụng niệm ở chốn Phật đường, tiếng chuông chùa ngân vang thánh thiện, tiếng mõ gõ đều đặn… Cảnh trí nơi đây thật siêu thoát, tôn nghiêm. Ngay tại ngôi chùa này, hòa thượng Thích Tâm Thân hiệu Từ Thạnh đã giữ bảo vật kèn đá từ năm 1964. Đến năm 1994, đại đức Thích Nguyên Lai giao lại cho Bảo tàng tỉnh Phú Yên.
Đặc điểm của chiếc kèn đá này như sau:
Về hình dáng: Khi đặt ngòi như một con cóc nhỏ.
Trọng lượng: 34/5 kg.
Kích thước: đáy dưới 29cm, cao 35cm, chiều cong cửa lưng 52cm.
Từ lỗ thổi đến lỗ thoát hơi ra dài 29,5cm. Lỗ thổi rộng 1,8cm, chỗ thoát hơi mở rộng thêm 6,7cm. Chiếc tù và này, một bên cũng có một lỗ xoáy sâu tới 8,7cm. Khi thổi, người thổi thường cho một ngón tay cái vào trong lỗ để thổi đỡ rung.
Dấu vết ghè đẽo: tù và có những nhát ghè đẽo nhỏ ỏ một số rìa xung quanh hiện vật. Ở phần đế, có những vết ghè đẽo tạo cho phần đế có một mặt phẳng khi thổi không bị rung. Cũng theo cố tiến sĩ Quang Văn Cậy: “Vương quốc Chămpa là vương quốc có sự kết hợp chặt chẽ giữa vương quyền và thần quyền, yếu tố này đã chi phối mạnh mẽ, sâu sắc trong lĩnh vực hoạt động của xã hội Chămpa, nhất là trong lĩnh vực nghệ thuật, đặc biệt là điêu khắc đá. Điêu khắc đá Chămpa rất đa dạng và thể hiện phong phú về nội dung… Các nghệ nhân Chămpa là những người sử dụng thuần thục trong việc chế tạo đá, chính họ có những suy tư trong mối liên kết giữa cuộc sống đời thường với những lễ giáo thiêng liêng và những hiện thực cuộc sống của xã hội Chămpa đương thời”.
Mời bạn về với chùa Thiền Sơn để được sống những giây phút bên ngôi chùa cổ và được nghe kể lại hành trình của kè đá từ chùa Hố Thị về chùa Thiền Sơn.
(Báo cáo chuyên đề: Phát hiện hai hiện vật bằng đá khi thổi phát ra âm thanh. Tiến sĩ Quang Văn Cậy, Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam)