|
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị tổng kết
25 năm thu hút FDI vào Việt Nam (Ảnh: Chinhphu.vn) |
Thủ
tướng cũng khẳng định, chính sách thu hút vốn FDI cũng chính là một trong
những nội dung quan trọng của đường lối đổi mới, cải cách kinh tế
và chủ động hội nhập về kinh tế, thương mại và đầu tư với tất cả
các đối tác quốc tế. Thời gian tới, thu hút vốn FDI cần tập trung theo 5 định
hướng lớn. Một là, phải được quy hoạch theo ngành, lĩnh vực, đối tác phù
hợp với lợi thế của từng vùng, từng ngành để phát huy hiệu quả đầu tư của từng
địa phương, từng vùng và phù hợp tổng thể lợi ích quốc gia. Hai là, phải
có chọn lọc, chỉ thu hút những dự án có chất lượng, sử dụng công nghệ hiện đại,
thân thiện môi trường, tăng cường sự liên kết với các doanh nghiệp trong nước,
phù hợp với định hướng tái cấu trúc nền kinh tế. Ba là, đa dạng hóa hình
thức đầu tư, khuyến khích và tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài tham
gia phát triển kết cấu hạ tầng, cả kinh tế và xã hội. Bốn là, tăng cường
hơn nữa nỗ lực, công tác chuẩn bị để thu hút được các dự án quy mô lớn, sản
phẩm cạnh tranh cao, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của các tập đoàn xuyên
quốc gia hàng đầu thế giới, làm tiền đề cho xây dựng, phát triển hệ thống các
ngành, các doanh nghiệp hỗ trợ trong nước; đồng thời, vẫn chú trọng đến các dự
án có quy mô vừa và nhỏ có tác động tích cực đến kinh tế - xã hội của nước ta. Năm
là, chuyển dần thu hút FDI hướng vào đào tạo, phát triển và sử dụng nguồn
nhân lực có kỹ năng, tay nghề cao.
10 nhiệm vụ
Với những định hướng đó,
Thủ tướng yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương quán triệt và thực hiện một số
nhiệm vụ:
Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh công tác xây dựng,
hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách liên quan đến đầu tư, kinh doanh;sửa
đổi ngay các nội dung không còn phù hợp, không đồng bộ, thiếu nhất quán, còn
bất cập, chưa rõ bổ sung các nội dung còn thiếu. Đặc biệt, chính sách thu
hút và ưu đãi đầu tư phải được xây dựng theo hướng thuận lợi và có tính cạnh tranh
hơn so với các nước trong khu vực.
Thứ hai, đẩy mạnh thu
hút đầu tư vào kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; lựa chọn các dự án tiềm năng
hấp dẫn, có tính khả thi cao theo các lĩnh vực ưu tiên để đưa vào danh mục dự
án PPP, bố trí nguồn vốn ngân sách để đầu tư đối ứng cho các dự án PPP kêu gọi
nhà ĐTNN. Có chính sách ưu đãi đủ sức hấp dẫn đối với một số dự án hạ tầng kinh
tế - xã hội có quy mô lớn, có tính lan toả và tác động tích cực đến phát triển
kinh tế - xã hội.
Thứ ba, tăng cường và có kế hoạch đào tạo nguồn
nhân lực chất lượng cao để đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp. Hoàn thiện các quy
định của pháp luật để tăng cường quản lý người lao động nước ngoài làm việc tại
Việt Nam theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho lao động nước ngoài có trình độ
chuyên môn kỹ thuật cao, có tính đến các trường hợp đặc thù và đảm bảo quản lý
hiệu quả lao động nước ngoài tại Việt Nam.
Thứ tư, sửa đổi, bổ sung các quy định về tiêu
chí doanh nghiệp công nghệ cao theo hướng điều chỉnh và cụ thể hóa tiêu chí
công nghệ cao phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam, có tính đến nhóm các
dự án công nghệ cao có mức doanh thu hàng năm lớn và sử dụng nhiều lao động
chất lượng cao.
Thứ năm, tập trung phát
triển công nghiệp hỗ trợ theo hướng tập trung vào một số ngành, sản phẩm trọng
điểm. Cụ thể hóa các tiêu chí xác định ngành, sản phẩm được hưởng ưu đãi theo
diện công nghiệp hỗ trợ. nâng mức ưu đãi đủ sức hấp dẫn các nhà đầu tư trong
lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ; trong đó, đặc biệt ưu đãi cao hơn cho các doanh
nghiệp đầu tư theo chuỗi dự án sản xuất sản phẩm lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ so
với các dự án đơn lẻ.
Thứ sáu, công bố rộng
rãi các quy hoạch đã được phê duyệt, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư
nước ngoài tiếp cận thông tin về quy hoạch để xây dựng kế hoạch đầu tư. Tập
trung hoàn thiện thể chế về quy hoạch nhằm nâng cao chất lượng của các quy
hoạch được phê duyệt và tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước đối với công tác
quy hoạch phục vụ đầu tư phát triển. Tăng cường gắn kết giữa quy hoạch sử dụng
đất với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội theo hướng ưu tiên quỹ
đất để thực hiện dự án có trong quy hoạch đã được phê duyệt.
Thứ bảy, quy định tiêu
chuẩn môi trường và giới hạn ô nhiễm môi trường. Ban hành hạn ngạch ô nhiễm,
quy định lượng phát thải đối với doanh nghiệp; yêu cầu doanh nghiệp phải đăng
công khai về một số thông tin liên quan (loại chất thải, lượng thải, điểm thải,
tiêu chuẩn môi trường,...).
Thứ tám, hoạt động XTĐT cần gắn với mục tiêu,
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội quốc gia; có sự điều phối thống nhất trong
cả nước, được thực hiện theo kế hoạch và theo định hướng thu hút đầu tư nước
ngoài, nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động XTĐT, tránh chồng chéo và sử dụng kém
hiệu quả nguồn lực của quốc gia.
Có chính sách vận động,
thu hút đầu tư đặc thù đối với các dự án có quy mô lớn, có tính lan toả và tác
động tích cực đến phát triển kinh tế - xã hội, trong đó chú trọng tới đầu tư từ
các tập đoàn đa quốc gia và các đối tác trọng điểm (EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn
Quốc...).
Chú trọng XTĐT đối với
các doanh nghiệp nhỏ và vừa, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ (gắn
với các tập đoàn đa quốc gia đầu tư lớn vào Việt Nam).
Tập trung hỗ trợ các dự
án đã được cấp Giấy chứng nhận đầu tư để các dự án này triển khai hoạt động
thuận lợi và có hiệu quả, đây là hình thức xúc tiến đầu tư tại chỗ rất hữu ích.
Thứ chín, chấn chỉnh công tác cấp Giấy chứng
nhận đầu tư theo hướng: Đối với các dự án có quy mô lớn, có tác động xã hội,
ngoài nội dung thẩm tra theo quy định chung của pháp luật, các cơ quan cấp
GCNĐT phải xem xét, đánh giá dự án đáp ứng các yêu cầu về năng lực tài chính
của nhà đầu tư (bao gồm cả việc quy định các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ triển khai dự án của chủ đầu tư). Đối với các dự án ĐTNN khai thác khoáng
sản, việc chọn nhà đầu tư phải gắn khai thác với chế biến sâu, tạo ra giá trị
gia tăng cao bằng công nghệ, thiết bị hiện đại và hệ thống xử lý môi trường để
sử dụng nguồn tài nguyên có hiệu quả. Đối với một số địa bàn, khu vực có ảnh
hưởng đến an ninh quốc phòng, cần lựa chọn nhà đầu tư nước ngoài phù hợp để đảm
bảo hài hòa lợi ích về kinh tế và an ninh quốc phòng.
Thứ mười, tăng cường
trách nhiệm và cơ chế phối hợp trong quản lý sau cấp phép. Tập trung hỗ trợ các
dự án đã được cấp GCNĐT. Định kỳ rà soát, phân loại các dự án ĐTNN để có hướng
xử lý thích hợp theo nguyên tắc: Đối với các dự án đang hoạt động của các nhà
đầu tư lớn, tập đoàn xuyên quốc gia, thuộc lĩnh vực khuyến khích đầu tư, có
tính lan tỏa cao, các dự án nhỏ và vừa hoạt động hiệu quả, các cơ quan quản lý
nhà nước cần thường xuyên nắm tình hình, kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng
mắc phát sinh và có cơ chế khen thưởng thỏa đáng;
Đối với những dự án đã
được cấp GCNĐT nhưng không phù hợp với định hướng về ngành, lĩnh vực, địa
bàn,... và nhà đầu tư chưa triển khai hoặc triển khai không đúng tiến độ cam
kết thì xem xét việc chấm dứt hoạt động và thu hồi GCNĐT hoặc điều chỉnh quy
mô, mục tiêu. Việc chấm dứt hoạt động hoặc điều chỉnh các dự án này phải tiến
hành minh bạch, đúng quy định của pháp luật, bảo đảm sự ổn định của môi trường
đầu tư tại Việt Nam./.